Điều cần rút kinh nghiệm từ truyện THIẾU PHỤ NAM XƯƠNG
Truyenhinhvietnam1 (Calitoday)
*
* *
Ngày xưa ở huyện Nam Xương, tỉnh Hà Nam có người con gáitên Vũ Thị Thiết. Người
đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp. Trong làng có chàng
Trương sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về.
Song Trương có tính hay ghen, đối với vợ phòng ngừa thái quá. Nàng cũng
giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa.
Cuộc
đoàn viên chưa được mấy lâu thì nhà nước có việc đi đánh Chiêm Thành,
bắt nhiều lính tráng. Trương tuy con nhà dòng, nhưng không có học, tên
đã ghi trong sổ khai tráng phải ra sung binh loạt đầu. Lúc chàng ra đi,
bà mẹ có dặn rằng:
-
Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy là hội công danh từ
xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách, phải lấy việc giữ mình làm
trọng, biết gặp nạn thì lui, lượng sức mà đánh, đừng nên tham miếng mồi
thơm, để lỡ mắc vào lưới cá. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có
như thế thì mẹ ở nhà mới đỡ lo lắng vì con được.
Chàng quỳ xuống đất vâng lời dạy. Nàng thì rót chén rượu đầy tiễn chồng rằng:
-
Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo
gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế
là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, rợ man chạy
tội, vương sư uổng công; lời tâu công lớn phá giặc đã chầy, kỳ hẹn thay
quân hóa muộn, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.
Trông mảnh trăng Trường An, nhanh tay đập áo rét, ngắm liễu tàn rủ bóng
động nỗi niềm biên ải xa xôi. Giả sử có muôn hàng thư tín, chỉ e không
một tin về.
Nàng nói đến đấy, mọi người đều ứa hai hàng lệ.
Rồi
đó chén đưa vừa cạn, dứt áo chinh phu, ngước mắt trông lên đã đẫm nỗi
buồn ly biệt. Bấy giờ nàng đã đương có thai. Sau khi tương biệt được
mươi ngày thì sinh một đứa con trai, đặt tên là thằng Đản.
Ngày
qua tháng lại, thoắt đã nửa năm. Mỗi khi thấy bướm bay vườn thúy, mây
ám non Tần, nỗi buồn hải giốc thiên nhai, lại không thể nào ngăn được.
Bà mẹ cũng vì nhớ con mà dần sinh ốm. Nàng hết sức thuốc thang, lễ Phật
cầu thần, cúng ma gọi vía và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn.
Song bệnh thế mỗi ngày một trầm trọng hơn, bà mẹ trối lại với nàng rằng:
-
Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng
con về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh.
Đêm tàn chuông đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong sớm
tối, không khỏi phải phiền đến con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào,
không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho
phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia
chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ.
Bà cụ nói xong rồi thì mất. Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; lo liệu như đối với cha mẹ sinh ra.
Qua
sang năm sau, giặc Chiêm chịu trói, quân nước kéo về. Trương sinh tới
nhà thì mẹ đã từ trần, con vừa học nói. Chàng hỏi mộ mẹ rồi dắt con nhỏ
đi thăm, song đứa bé không chịu, gào khóc. Sinh dỗ dành:
- Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!
Đứa con nói:
- Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít.
Chàng ngạc nhiên gạn hỏi. Đứa con nói:
-
Khi ông chưa về đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến. Mẹ
đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
Tính chàng hay ghen, nghe đứa con nói vậy, tin chắc đinh ninh là vợ hư, không còn cách gì tháo cởi ra được.
Về đến nhà, mắng vợ một bữa cho hả giận. Nàng khóc mà rằng:
-
Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối,
chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết. Tô
son điểm phấn, từng đã nguội lòng, ngõ liễu đường hoa chưa hề bén gót.
Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin trần bạch để cởi
mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.
Chàng
vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia từ ai nói ra thì giấu không kể
lời con nói; chỉ thường thường mắng mỏ nhiếc móc và đánh đuổi đi. Họ
hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng cũng chẳng ăn thua gì cả.
Nàng bất đắc dĩ nói:
-
Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất,
có sự yên ổn được tựa bóng cây cao. Đâu ngờ ân tình tựa lá, gièm báng
nên non. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao,
liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa gãy cuống, kêu xuân cái én lìa
màn, nước thẳm buồm xa, đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:
-
Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay
buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám. Thiếp
nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ
Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa
chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều
quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ.
Nói
xong gieo mình xuống sông mà chết. Chàng tuy giận là thất tiết, nhưng
thấy nàng tự tận, cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng nhưng chẳng
thấy tăm hơi đâu cả. Một mình phòng không vắng vẻ, đến đêm khêu bấc đèn
tàn, không sao ngủ được.
Chợt đứa con nói rằng:
- Cha Đản lại đến rồi!
Chàng hỏi đâu. Nó trỏ bóng chàng ở trên vách:
- Đây này!
Thì
ra khi chàng đi vắng, nàng thường đùa trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản.
Bấy giờ chàng mới hiểu ra nỗi oan của vợ, nhưng đã chẳng làm gì được
nữa.
Cùng
làng với nàng, có người tên là Phan Lang khi trước làm đầu mục bến đò
Hoàng Giang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh, đến kêu xin
tha mạng. Sáng dậy, Phan thấy có người phường chài đem vào biếu một con
rùa mai xanh, sực nghĩ đến chuyện mộng, nhân đem phóng sinh con rùa ấy.
Cuối đời Khai Đại nhà Hồ, quân Minh mượn tiếng đưa Trần Thiêm Bình về
nước, phạm vào cửa ải. Chi Lăng. Phan và người làng sợ hãi phải chạy
trốn ra ngoài bể không may đắm thuyền đều chết đuối cả. Thây Phan Lang
giạt vào một cái động rùa ở hải đảo, bà Linh Phi trông thấy nói rằng:
- Đây là vị ân nhân cứu sống cho ta xưa đây.
Linh
phi bèn sai lấy khăn gấm mà lau, lấy thuốc thần mà đổ, một chốc Phan
Lang liền tỉnh lại. Phan trông thấy cung gấm đài dao, nguy nga lộng lẫy
không biết là mình đã lạc vào trong thủy tinh cung, Linh Phi bấy giờ mặc
tấm áo cẩm vân dát ngọc, đi đôi giày mầu ráng nạm vàng cười bảo Phan
rằng:
-
Tôi là Linh Phi trong Quy động, phu nhân của Nam Hải Long Vương. Nhớ
hồi còn nhỏ đi chơi ở bến sông, bị người phường chài bắt được, ngẫu
nhiên báo mộng, quả được nhờ ơn. Gặp gỡ ngày nay, há chẳng phải lòng
trời có ý cho tôi một dịp đền ơn báo nghĩa.
Phi
bèn đặt yến ở gác Triệu Dương để thết đãi Phan Lang, dự tiệc còn có vô
số những mỹ nhân bận quần nhẹ và búi tóc xễ. Trong số có một người, mặt
chỉ hơi điểm qua một chút son phấn trông rất giống Vũ nương. Phan thường
nhìn trộm luôn, nhưng không dám nhận.
Tiệc xong, người ấy bảo với Phan Lang rằng:
- Tôi với ông vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã coi nhau như khách qua đường xa lạ rồi ư?
Bấy giờ Phan mới nhận đích người ấy là Vũ nương. Gạn hỏi duyên do. Nàng nói:
-
Tôi ngày trước không may bị người vu báng, phải gieo mình xuống sông tự
tử. Chư tiên trong thủy cung thương tôi vô tội, rẽ một đường nước để
cho tôi được khỏi chết, nếu không thì đã chôn trong bụng cá, còn đâu mà
gặp ông.
Phan nói:
-
Nương tử nghĩa khác Tào Nga, hờn không Tinh Vệ mà có mối hận gieo mình
nơi sông. Nay thấm thoát đã một năm chầy, há lại không tưởng nhớ đến quê
hương ư!
Vũ thị nói:
- Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về gặp mặt chồng!
Phan Lang nói:
Thưa
nương tử, tôi trộm nghĩ, nhà cửa của tiên nhân, cây cối thành rừng,
phần mộ của tiên nhân, cỏ gai lấp mắt. Nương tử dầu không nghĩ đến,
nhưng còn tiên nhân mong đợi ở nương tử thì sao?
Nghe đến đây, Vũ nương ứa nước mắt khóc rồi nói:
-
Tôi có lẽ không thể gửi mình ẩn vết ở đây mãi được. Ngựa Hồ gầm gió
bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày.
Hôm
sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía đựng mười hạt minh châu, sai
Xích Hỗn sứ giả đưa Phan ra khỏi nước; Vũ nương cũng đưa gửi một chiếc
hoa vàng mà dặn:
-
Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn
giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện
về.
Về
đến nhà, Phan đem chuyện kể lại với nhà Trương. Ban đầu Trương còn
không tin. Nhưng sau nhận được chiếc hoa vàng, mới kinh sợ nói:
- Đây quả là vật dùng của vợ tôi xưa thật.
Chàng
bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả
thấy Vũ nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau
lại có đến hơn năm mươi chiếc xe nữa, cờ tàn tán lọng, rực rỡ đầy sông,
lúc ẩn lúc hiện. Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói với vào:
- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể lại về nhân gian được nữa.
Rồi trong chốc lát, những cảnh tượng ấy chìm đi mất.
Về sau, người trong làng thương nhớ nàng, cho nàng là người trung liệt, nên đã dựng một cái miếu để thờ ngay trên bến Hoàng Giang.
Miếu này thờ bà Vũ Thị Thiết, quen gọi là Miếu Vợ Chàng Trương.
Vua Lê Thánh Tông đã có lần ngự lãm qua đây và biết được câu chuyện về một người nữ tiết hạnh nên đã cảm thán đặt một bài thơ:
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Ngọn đèn dầu tắt đừng nghe trẻ
Làn nước chi cho lụy đến nàng...
*
* *
* *
"Thiếu Phụ Nam Xương"
Hồng Vân & Hoàng Thư - Tiếng hát Nhật Trường
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire