mercredi 28 janvier 2015

Di sản Việt: Khí tiết của người xưa: Thiên cổ anh hùng Giang Văn Minh

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgXqulNd8lo4_9yi5N-IFEi31Z9aDi6eNZDnWm-N9miLwWL50iTufrtT4c6vQJhOigJzUs6R3urqOqYGoKh49O0r03ibXRhrD1ylnY2ajbhoS85Yx_BEa3h_CKgY8b80VJGbQFIC8nAriY/s640/images43961_Den+tho+Giang+Van+Minh.JPG
 
  
Khí tiết của người xưa: Thiên cổ anh hùng Giang Văn Minh 
*
*    *

Giang Văn Minh - Vị sứ thần bất nhục quân mệnh

Giang Văn Minh tự Quốc Hoa, hiệu Văn Chung, là quan dưới triều Lê trung hưng. Ông sinh năm 1573 tại làng Kẻ Mía, xã Mông Phụ,  tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội). Ông từng đỗ đầu kỳ thi Hội, rồi thi Đình lại đỗ Đình nguyên Thám hoa khoa Mậu Thìn, năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) đời Lê Thần Tông. Khoa thi này không có ai đỗ Trạng nguyên hay Bảng nhãn, vì vậy ông là người đỗ cao nhất trong cả khoa thi. Sau khi đỗ đạt, ông lần lượt được bổ nhiệm vào các chức vụ như Binh khoa đô cấp sự trung (1630), Thái bộc tự khanh (1631). Ngày 30 tháng 12 năm Dương Hòa thứ 3 (1637), ông và Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua cử làm chánh sứ cùng với 4 phó sứ là: Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh.Tại đất khách, ông đã có những hành động và lời nói đầy chí khí và đáng khâm phục.

Vua Minh bấy giờ là Minh Tư Tông Chu Do Kiểm (tức hoàng đế Sùng Trinh). Vào ngày khánh thọ vua, các sứ giả các nước đến cống lễ thiên triều, đều mũ áo chỉnh tề, đem phẩm vật đến mừng đúng theo phép tắc. Chỉ mỗi sứ thần Đại Việt là không thấy đâu cả. Vua nổi giận, cho thị vệ đến công quán, đòi sứ giả đến hỏi nguyên do.
Thị vệ đến nơi thấy sứ thần Việt Nam đang nằm trên giường, ôm mặt khóc nức nở. Đem lệnh tuyên triệu ra, ông mới gắng gượng theo họ đi triều kiến nhà vua. Trả lời câu hỏi và cũng là lời trách cứ vì tội vô lễ, sứ thần Đại Việt quỳ xuống tâu:
- Thần tự biết việc dự lễ khánh thọ là hệ trọng, vắng mặt thật là điều trọng tội, kính xin thánh hoàng lượng thứ cho. Nguyên do chỉ vì hôm nay lại đúng vào ngày giỗ tổ của thần. Thần được nhận trọng trách đi sứ xa quê hương lâu ngày, gia đình ở quê thì neo đơn, đến ngày giỗ tổ mà không thắp được nén hương tưởng niệm thì thấy xót xa trong dạ. Vì vậy mà không thể nào tham dự được cuộc vui.
Nói xong, ông lại khóc ầm lên. Vua Minh bỗng bật cười:
- Tưởng làm sao chứ như thế thì việc gì phải khóc. Cũng đáng khen cho nhà ngươi biết giữ hiếu kính với tổ tiên. Nhưng nếu là giỗ cha, giỗ mẹ thì còn có thể được, chứ ông tổ xa xôi như vậy thì có gì đáng phải băn khoăn cho lắm. Người khuất, chuyện xa đã đến mấy đời, thì cũng có thể “miễn nghị”.
Vị sứ giả Đại Việt lau nước mắt, ngẩng đầu lên, giọng trầm và kiên quyết:
- Muôn tâu, lời dạy của thánh hoàng thật là quý báu. Chính thần cũng đã nghĩ như vậy, mà vẫn không an tâm, vì thần vẫn thấy trong đời, lắm chuyện xa xôi mà không được “miễn nghị”. Chẳng hạn như việc thiên triều bắt nước Nam của thần phải cống nạp người vàng để trả nợ Liễu Thăng chết cách đây hàng mấy trăm năm. Mãi đến bây giờ cũng chưa miễn nghị. Nay được lời thánh hoàng ban dạy, thần cũng xin gác lại ngày giỗ tổ để cùng vui với buổi khánh tiết này. Cúi xin thánh hoàng từ đây “miễn nghị” cho cái nợ Liễu Thăng, cho tình giao hảo hai nước khỏi bị những chuyện xa xôi kia làm bận bịu...
Vua Minh ngớ người ra! Lý lẽ của sứ thần thật mềm mỏng, ôn hòa mà chặt chẽ, kín không khe hở. Vua đành gật đầu, cho bãi bỏ lệ cống người vàng. Tuy vậy, phải đến triều nhà Thanh, cái lệ này mới chấm dứt vĩnh viễn.
Những ngày ở lại kinh đô nhà Minh, Giang Văn Minh vẫn cứ tỏ thái độ cứng cỏi, đôi lúc cũng ngông cuồng. Có lần sau những ngày mưa gió ẩm ướt, trời nắng, ai cũng đi dạo chơi, ngắm cảnh, sưởi ấm, riêng ông lại ra nằm trước sân, phanh bụng để... phơi nắng! Mọi người thấy lạ hỏi tại sao, thì ông nói:
- Lâu nay học hành, sách vở thiên hạ có bao nhiêu, đều thu cả vào trong bụng này. Bên nước Nam, thời tiết hanh khô, chứ bên này thì ẩm ướt quá. Hôm nay được trời nắng to phải phơi bụng ra cho chữ trong ấy khỏi mốc!
Câu trả lời hóm hỉnh nhưng có kẻ hiểu ra thành ông có ý khinh bỉ, ngạo đời. Họ tâu lại với vua Minh, nhà vua muốn nhắc lại cho sứ giả biết rằng xưa kia nước Nam đã có thời gian nội thuộc thiên triều lâu dài. Bởi vậy nhân một dịp thử tài ứng đối, nhà vua đã ra cho Giang Văn Minh một vế đối như sau:
Đồng trụ chí kim đài dĩ lục (Cột đồng nay rêu đã bám xanh!)
Ý muốn nhắc chuyện Mã Viện sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ - tức Đại Việt - bị diệt vong).
Giang Văn Minh cứng cỏi đáp lại:
Đằng giang tự cổ huyết do hồng (Sông Đằng từ xưa máu vẫn đỏ!)
Máu vẫn đỏ là vì máu loang ra từ những trận Ngô Quyền diệt Hoằng Thao, Lê Hoàn diệt Hầu Nhân Bảo, Trần Hưng Đạo diệt Thoát Hoan.
Vào thời bấy giờ, câu đối này được xem là cái tát thẳng vào mặt hoàng đế nhà Minh trước đông đảo văn võ bá quan của Thiên triều và sứ bộ các nước. Vua nhà Minh bừng bừng lửa giận quên mất thể diện thiên triều, bất chấp luật lệ bang giao, đã trả thù bằng cách trám đường vào miệng và mắt ông, rồi cho người mổ bụng xem “bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”. Sự việc này xảy ra vào ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Nhưng Minh Tư Tông vẫn kính trọng ông còn cho ướp xác ông và đưa thi hài về nước. Khi thi hài của ông về đến Kinh thành Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng bái kiến linh cữu ông và truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công, ban tặng câu “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (tức là Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ).


Sau khi thi hài được đưa về nước, Giang Văn Minh được chôn cất tại Đồng Dưa, thuộc xứ Gò Đông, thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm. Trên cánh đồng này có một quán (hiện có dạng ngôi nhà) nhỏ là nơi linh cữu ông đã được quàn và gọi là Quán Quàn hay Quán Sứ.

 

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire