Diện mạo văn hóa, văn học miền Nam trong những tình thế cực đoan lại là nơi hội tụ của bốn dòng chảy văn hóa-văn học [kết]
Về mặt báo chí
Sự có mặt của các nhà báo, phóng viên, các người làm truyền thông từ miền Bắc di cư vào miền Nam là một thách thức lớn lao đối với cá nhân và sự nghiệp của chính họ.Điều trước tiên là họ không hoặc chưa có độc giả-. Trong Nam, người ta quen với văn phong của Bà Tùng Long và cách làm báo của bà Bút Trà rồi. Báo Sài Gòn Mới ra mỗi ngày 65.000 ngàn số, rồi còn Tiếng Chuông, 60.000 số, tiếp theo là Tin Điển, Tiếng Dội, Buổi Sáng, Thời Cuộc, Ánh Sáng, Lẽ Sống..
Không có độc giả, báo di cư lúc đầu lèo tèo bán được mười lăm đến 20 ngàn số đã là quý rồi. Đó là hoàn cảnh các báo Ngôn Luận của Hồ Anh, Tự Do của Phạm Việt Tuyền lúc đầu. Nhưng đến khi báo Sống của Chu Tử, tức Chu Văn Bình)- tác giả của các tác phẩm như Yêu và Ghét-. Ông nổi tiếng với mục Ao Thả Vịt. Và ông cũng là người đưa truyện dài Loan Mắt Nhung của Nguyễn Thụy Long ra trình làng.
Báo Sống của Chu Tử xuất hiện như một thứ nổi loạn thành công ngay từ đầ và đã tự tạo cho mình một phong cách làm báo riêng.- Đó là Phong cách Chu Tử- và nó có một số độc giả phần lớn ở Sài Gòn vượt mọi con số.
Chính Luận của bác sĩ Đăng Văn Sung thì đã chững chạc, uy tín lắm rồi về mặt tin tức và bình luận chính trị mà thường các báo chí khác ở Sài Gòn thường coi nhẹ..
Đây là một khúc quanh khá quan trọng trong làng báo Sài Gòn. Chính Luận tránh đưa những loại tin giật gân và nhảm nhí. Uy tín ấy nay nằm trong các tin tức bình luận chính trị sắc bén thay vì các tin tức nhảm nhí, bịa đặt.
Rồi điều thứ hai dân làm báo Bắc Kỳ chưa tạo được tên tuổi-. Tên tuổi ở miền Bắc thì có thể có- như trường hợp Tam Lang, Vũ Bằng, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Lê Văn Trương, Thượng Sĩ, Trực Ngôn.
Nhưng tên tuổi ở trong Nam lại là một chuyện khác. Họ phải tự ngoi lên.
Những tên tuổi như Tam Lang, Vũ Bằng, nhất là Lê Văn Trương chẳng mấy chốc lu mờ đi nhường chỗ cho Sức Mấy, Hiếu Chân, Dương Hùng Cường hay Dê Húc Càn, Thần Đăng, Công Tử Hà Đông, Gã Thâm (hai bút hiệu của Hoàng Hải thủy), Thợ đấu Hoàng Anh Tuấn và đặc biệt nhất là Duyên Anh.
Nguyễn Thụy Long- tiêu biểu cho số phận một nhà báo long đong, cơ cực nhất, vào tù ra khám, lúc làm culy ở kho 5 Khánh Hội, lúc làm thợ hồ. Chỉ đến khi Chu Tử ra báo Sống, sau 1963 đã thu nhận ông. Trong hồi ký ông viết: ông run lên vì nhận được số tiền nhuận bút đấu tiên, từ đó đời ông mới khấm khá lên được.
Rồi đến Duyên Anh cũng có lúc ba chìm bảy nổi- nhưng không đến nỗi long đong như Nguyễn Thụy Long-, ông đã gây được sự nghiệp làm báo với nhiều bút hiệu như Thương Sinh, Nã Cẩu, Bếp Lửa. Nhưng bút hiệu Thương Sinh quen thuộc hơn khi ông ra tờ Con Ong.[1]
Xem Duyên Anh và tôi, Vũ Trung Hiên, 2000
Nếu Nguyễn Thụy Long may mắn gặp được Chu Tử với bào Sống, thì Duyên Anh cũng may mắn khi về cộng tác với tờ Xây Dựng của linh mục Nguyễn Quang Lãm, bút hiệu Thiên Hổ.
Truyện ngắn đầu tay Duyên Anh là Hoa Thiên Lý và Con sáo của em tôi đăng trên tờ Chỉ Đạo của Nguyễn Mạnh Côn đã chinh phục được lứa tuổi nhi đồng bấy giờ cũng như những truyện khác của ông sau này.
Ngoài Nhật Tiến viết về các thiếu nhi bất hạnh còn có Lê Tất Điều. Nhưng Duyên Anh có thể nói là một nhà văn viết dành cho tuổi trẻ. Thế giới của tuổi nhi đồng trong truyện của Nhật Tiến thường gặp nhiều bất hạnh. Trong khi thế giới trong truyện của Duyên Anh là một thế giới vui tươi, nghịch phá. Thế mới là tuổ trẻ. Vio2 thế, những truyện thiếu nhi của ông được nhiều thanh thiếu niên tìm đọc. Trội vượt hơn cả là các cuốn Luật hè phố, Thằng Vũ, Bồn Lừa, Thằng Côn vv..
Nhưng Duyên Anh còn nổi tiếng- như một thứ vua không ngai- trong các phóng sự mang tính châm chọc, chửi bới đủ hạng người trong xã hộii và gây nhiêu thù oán với những bài viết phóng sự như Tiền Mẽo, Sến Việt, Đầm Giao Chĩ.. Ông chế ra nhiều chữ, chửi ai thì người đó chỉ có chết. Tỉ dụ chửi tác giả Cậu Chó, ký tên Trần Đức Lai của ông Tô Văn. Tô Văn tên thật là Bùi Bá Nhân, Thương Sinh đổi ra là Bùi bất Nhân..
Khen ai cũng hết lòng khi gọi Phạm Kim Vinh, tức Trương Tử Phòng, bình luận gia của báo Chính Luận là quân tử. Cũng đúng chừ không phải là sai. Những Trần Kim Tuyến, Ngô Đình Diệm thì đều có trong mắt của Duyên Anh. Ông trân trọng cả hai. Điề đó cũng đúng cả.
Khi ông làm phòng viên cho tờ Xây Dựng đi dự phiên tòa xử Đặng Sỹ, ông thấy rõ việc dàn dựng của Trí Quang trong việc này. Ít báo nào dám lên tiếng. Ông ghi nhận và những ghi nhận của ông trong phiên tòa được giao cho một người viết ký tên Lê Thương Hòa. Lê Thương Hòa là ai? Theo Duyên Anh tiết lộ chính là Trần Kim Tuyến.
Cuộc đời Duyên Anh lúc cuối đời gặp rất nhiều truân chuyên, oan trái từ đi tù cải tạo đến bị đánh oan và gia đình gặp nhiều lủng củng..
Vài dòng ghi nhận vắn tắt về ông như một chứng nhân đặc biệt của nhà báo di cư vào miền Nam.
Trước cuộc di cư, làng báo Sài Gòn bị cộng sản trà trộn, chi phối. Đó là cái khó khăn thứ ba.
Đó cũng là một thử thách thêm nữa cho các nhà làm báo di cư phía Bắc.
Một trong những vết đen của làng báo Nam Kỳ là là có sự thả lỏng cho sự xâm nhập của cộng sản vào trong các tòa doạn.
Quả thực, họ đãng lũng đoạn nhiều tờ báo mà nhiều khi chủ nhiệm chủ bút không biết.
Các tờ báo trong Nam một cách nào đó đã bị chi phối bởi cộng sản qua những nhân vật chủ chốt như Trần Bạch Đằng, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Văn Linh và Mai Văn Bộ. Ngoài ra hầu như báo nào cũng bị chi phối xâm nhập như các tờ Dân Chúng, Sài Gòn mới và sau đó là các tờ Tiếng Dội, Trời Nam, Lẽ Sống, Buổi Sángvv..
Điều tai hại là ngay một số số ký giả lão thành có uy tín như Nam Đình, Nguyễn Ang Ca, Trần tấn Quốc cũng ngả theo cộng sản.
Cho nên, ngay khi vừa chấp chánh thì chính quyền của Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã đóng cửa ngay lập tức tờ Thần Chung của Nam Đình.
Ngày nay nhìn lại, phải nhìn nhận là các tờ báo này thiếu nhạy bén về chính trị, chú trọng nhiều vào phạm vi thương mại nên phần đông đều có bọn ký giả nằm vùng theo cộng sản xâm nhập. Triệu Công Minh len lỏi vào báo Tiếng Dội, Trường Xuân Trúc vào báo Dân Chúng, Nam Thanh, báo Lẽ Sống, Đồng Văn Nam, Phương Ngọc, Phan Ba, báo Buổi Sáng, Trần Thanh Thế, Văn Mạnh, báo Sài Gòn mới, Nguyễn Văn Hiếu, báo Tiếng Chuông.. Cộng thêm một số ký giả kỳ cựu và nghệ sĩ cải lương cũng theo cộng sản như Các ông Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Nguyễn Tích Dẫn, Nguyễn Huy, Hồ Văn trai, Sơn Tùng, Phong Đạm, Quốc Phượng, Hoài Trinh, đạo diễn Lê Dân và Mai Thế Đồng, nhà văn Thẩm Thệ Hà, Nguyễn Bảo Hóa. Các cán bộ trí vận như Nguyễn Văn Chì, Trần Văn Hanh, Nguyễn Trường Cửu, Cổ Tấn Văn, Bùi Đức Tịnh, Hồ Văn Trai..
Cộng chung, trên dưới cũng 40-50 chục người.
[2]Đọc Địa Chí Văn Hóa, thành phố Hồ Chí Minh, trang 600-604.
Sự xâm nhập của cộng sản vào làng báo Nam Kỳ là điều khó kiểm soát cho các vị chủ báo như ông Đinh Văn Khai, báo Tiếng Chuông hay bà Bút Trà, bào Sài Gòn mới vv..
Ngay cả những tờ báo sau này do người Bắc di cư làm chủ báo cũng bị cộng sản cài người vào như trường hợp ký giả Thành Hương vào báo Dân Chủ của ông Vũ Ngọc Các, Châu Dương vào báo Ngôn Luận của ông Hồ Anh, Ty Ca vào tờ Sài Gòn Mai của ông Ngô Quân, Ký Ninh vào tờ Thời Luận của ông Nghiêm Xuân Thiện, Nam Đình vào tờ Dân Chủ Mới.
Việc kiểm soát càng trở nên khó khăn khi làng báo quy tụ một số lớn các nhà báo thuộc đủ thành phần, đủ nguồn gốc như cựu kháng chiến, kháng chiến về thành, di cư mới vào. Làm thế nào để phân biệt dứt khoát ai là thân cộng, ai chống cộng. Làm thế nào xác định, đánh giá được Văn Bia, Bình Nguyên Lộc, Kiên Giang Hà Huy Hà, Hiếu Đệ, Nguyễn Ang Ca, Sơn Nam? .. hay những tên tuổi như Đỗ Tấn, Vũ Hạnh, Đông Tùng..
Ngay giữa Sài Gòn nhởn nhơ những người ngả theo cộng sản như Sơn Nam, Vũ Hạnh. Họ là bạn bè của những Thanh Lãng, Nhật Tiến, Nguyễn Tường Tam. Bên cạnh họ là những nhà báo chống cộng sản như Từ Chung, Sức Mấy, Chu Tử…
Tất nhiên chính quyền không thể không nghĩ tới tình thế nan giải trên và đã bày tỏ nỗi ưu tư đó bằng cách đưa ra 7 Nghị định về xuất bản và kiểm duyệt báo chí từ ngày 7-7-1954- ngay ngày đầu tiên chấp chính của thủ tướng Ngô Đình Diệm.
Và chỉ ba tuần sau, chính phủ Ngô Đình Diệm phải đương đầu sự khuấy rối của cộng sản qua Phong Trào Bảo vệ Hòa Bình tổ chức mít tinh ngay tại chợ Bến Thành, ngày 1-8-1954. Kẻ đứng làm bình phong là kỹ sư Lưu Văn Lang mà đằng sau ông ta là những cán bộ cộng sản như Phạm Huy Thông, Nguyễn Thị Châu Sa(về sau đổi tên là Nguyễn Thị Bình), Nguyễn Bảo Hóa tức ký giả Tô Nguyệt Đình và những trí thức như Nguyễn Hữu Thọ, nhà sư Thích Huệ Quảng, dược sĩ Trần Kim Quan, ký giả Nguyễn Thị Lựu, Giám điốc Pháp Hoa ngân hàng Nguyễn Văn Vỹ, tức Michel Vi Van.
Chính quyền phản ứng bằng cách băt giam 28 người cầm đầu Phong trào này. Nhưng cuối cùng do Ủy Hội Quốc tế can thiệp, chỉ có hai người bị đưa ra Bắc.
Trong số những ký giả trên, chính quyền VNCH ra lệnh bắt hàng loạt ký giả của nhiều tờ báo như Trần Ngọc Sơn, Anh Tín, Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Diệp Liên Anh, Trần Quốc Thảo.. đã bị đưa đi các trại tù ở Tân Hiệp, Biên Hoàn hoặc đầy ra Côn Đảo.
Có những biện pháp nhẹ hơn như nhóm Chân Trời Mới của bộ ba Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc phải tự ý đình bản đồng thời tuần báo Cải Tạo vốn do một ký giả miền Bắc di cư vào- ký giả Phạm Văn Thụ bị thu hồi giấy phép vì trao cho nhóm Hoàng Trọng Miên( điều hành tòa soạn. Riêng tờ Nhân Loại, nơi tập trung nhiều ký giả cộng sản thuộc hàng ngũ kháng chiến hoặc thiên tả.[3]
Nguyễn Văn Lục, Hai mươi năm miền Nam, 1955-1975, các trang 443-446
Trong một tình trạng bị cộng sản giật dây chi phối, lũng đoạn, vai trò của các phóng viên, nhà báo di cư trở thành một thứ Mặt trận với cộng sản nhằm tranh đấu loại bỏ ảnh hưởng của cộng sản và tranh đấu cho Tự do, dân chủ.
Nhưng chỉ một thời gian ngắn, các nhà báo miền Bắc, với ngòi bút phần lớn sắc bén về chính trị dần dần tạo dựng được tên tuổi, tạo dựng được uy tín nơi các độc giả di cư và ngay cả độc giả gốc miền Nam..
Những tờ báo đi đầu trong giai đoạn này là tờ báo Tự Do với bác sĩ Lý Trung Dung và nhóm sáng lập bị loại ra ngoài như các ông Tam Lang Vũ Đình Chí, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Như Phong, Nguyễn Hoạt để thay thế bằng nhà giáo Phạm Việt Tuyền đứng chủ nhệm.(Sau này, Nguyễn Hoạt cay cú và chỉ trích, nói xấu chế độ đệ nhất cộng hòa cũng như nói xấuTrần Kim Tuyến).
Tờ Tự Do lúc ấy được coi là tiêu biểu nhất cho các văn nhà báo thuộc diện di cư với các cây bút như Tam Lang, Hiếu Chân, Vũ Bình, Bùi Xuân Uyên, Như Phong Mai Nguyệt ( tức Tchya Đái Đức Tuấn), Hà Thượng Nhân.
Tiếp theo là tờ Ngôn Luận
Tiếp theo là các tờ Chính Luận, Dân Đen, rồi Xây Dựng, Hòa Bình, Tiền Tuyến Sống, và tờ Sóng Thần..
Nhiều nhà báo từ ngoài Bắc vào- tùy theo tuổi tác và kinh nghiệm nghề nghiệp- đã được đồng hóa vào sĩ quan quân đội để tiện nắm những chức vụ chỉ huy các cơ quan truyền thông đủ loại. Như trường hợp nhà báo Hà Thượng Nhân được biệt cách mang lon thiếu tá để làm việc.. Đã có rất nhiều những cây bút trở thành những ngòi bút tranh đấu như người lính ngoài mặt trận. Họ là những người như Hà Thượng Nhân, Dương Hùng Cường hay Dê Húc Càn, Sức Mấy, Hiếu Chân, Minh Võ, Từ Chung, Chu Tử vvVà nhiều ký giả trở thành mục tiêu cho cộng sán ám hại.
Rất tiếc là vào những năm cuối của chế độ đệ nhất cộng hòa phải lo đối phó với các thành phần đối lập nhất là bận tâm trước phong trào Phật giáo Ấn Quang..
Vai trò chống cộng sản bị tạm thời sao lãng. Mối ưu tư của chính quyền về hiểm họa cộng sản chuyển hướng qua sự lo âu về các hoạt động đối lập.
Thay vì chống Cộng nay phải lo chống đối lập, chống những người biểu tình. Phần một số nhà báo cũng bắt đầu quay ra chống chính phủ. Trước chống cộng nay chống chính quyền.
Và không có gì lạ sau 1963, tất cả những thành tích đạt được của các nhà báo chống cộng sản cũng như của chính quyền đã bị xóa hết mọi kết quả thâu được trong suốt 9 năm trước về mức kìm giữ được sự xâm nhập của cộng sản.
Sau 1963 là thời cơ của cộng sản đẩy mọi hoạt động khuynh đảo, khuấy rối thuộc đủ thành phần do cộng sản giật giây.. Nhiều lúc, chính quyền tỏ ra không còn có khả năng kiểm soát nổi trật tự ở ngay Sài Gòn.
Hầu như có một mặt trận ở ngoài trận địa với bom đạn và một thứ mặt trận với hàng rào kẽm gai, lựu đan cay và người biểu tình. Làm sao chúng ta không thua được?
Và mặc dù có một số tờ báo vẫn đứng vững, trụ chân làm thế chống đối bạo quyền cộng sản và bảo vệ miền Nam như các tờ Tin Sáng (do Lý Đại Nguyên đứng tên chủ nhiệm), Chính Luận, Sống, Đuốc Nhà Nam và Xây Dựng…Liệu những con én trên có làm nổi nên một mùa xuân không?
Sự chống đối lên đến cực điểm giữa chính quyền và tờ Sóng Thần, chống tham nhũng, tờ báo có lúc số phát hành theo Uyên Thao lên tới 200.000 số.
Bên cạnh đó chính quyền đệ nhị cộng hòa lại không quan tâm cho đủ đến một tờ tạp chí Tin Văn,- một tờ do Nguyễn Nguyên- một cán bộ cộng sản được cử vào Nam từ 1954- Tờ báo quy tụ nhiều ký giả nằm vùng như bà Minh Quân, Vũ Hạnh, Kiên Giang, Sơn Nam, Thẩm Thệ Hà, Thanh Việt Sơn, Phan Du, Đông Tùng ( Nguỹn Văn Bồng), Lương Sơn, Hướng Dương tức Rum Bảo Việt hay Sáu Chiến ủy viên đảng ủy văn hóa.. Ngoài ra còn có sự cộng tác của một số khuôn mặt nằm vùng theo MTGPMN như Lữ Phương, Thái Bạch và kéo theo được một số người khác như Nguyễn Hiến Lê, Á Nam Trần Tuần Khải, họa sĩ Tú Duyên, Nguyễn Đức Quỳnh, Trọng Lang, Thạch Chuong tức nhạc sĩ Cung Tiến, vv..
Qua Tin văn, Vũ Hạnh, Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn đã đánh phá các nhà báo như Chu Tử suốt từ 1966-1971. Riêng Phạm Duy bị Nguyễn Trọng Văn viết hẳn một cuốn sách nhan đề: Phạm Duy đã chết như thế nào ? vào năm 1971, do Văn Mới xuất bản..
Tin Văn đã đạt được một kết quả là vận động, lôi cuốn được 118 văn nhân, nghệ sĩ ký giả.. đồng ký tên vào bản Tuyên Ngôn chống Văn Nghệ đồi trụy để kết án tòan bộ sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam..
Sau luật 007 được ban hành thì phần thắng nghiêng hẳn về phía cộng sản.
Hai tờ Điện Tín và Bút Thép, ký giả Lê Hiền, người của cộng cài vào trực tiếp chi phối tờ báo. Còn lại một số tờ khác như Sài Gòn Mới, Dân Luận, Hòa Bình, Độc Lập nặng về phần kinh doanh hơn là chống cộng sản..
Còn lại tờ Đại Dân Tộc, Đông Phương thì người điều khiển tờ báo là một cán bộ cộng sản—ký giả Tô Nguyệt Đình, tức Nguyễn Bảo Hóa- từng bị bắt giam thời đệ nhất cộng hòa.
Nhìn lại cuộc tranh đấu xuống đường của nhật báo Sóng Thần với Ngày Ký giả đi ăn mày vào màn chót của miền Nam Việt Nam.. Tôi vẫn nghĩ là nó mang giá trị lưỡng tính của một chọn lựa: Hoặc chọn lựa giữa tranh đấu dân chủ, tự do báo chí hay là chọn lựa tranh đấu chống cộng sản?
Không lạ gì, cộng sản rêu rao về cái ngày đó như một thành tích của chính họ..
Về mặt Văn Học
Trí thức, nhà văn miền Bắc khi chọn di cư vào miền Nam đều có một mẫu số chung: chọn tự do. Tự do là lẽ sống và là lý do chính yếu để họ rời khỏi miền Bắc. 9 năm liên hệ, đối đầu với cộng sản đủ để họ hiểu thực chất người cộng sản là gì.
Khi bước chân vào miền Nam, các nhà văn, nhà thơ trẻ của miền Bắc đều có một thái độ chính trị rõ rệt, dứt khoát qua các bài viết trên tờ Người Việt( tiền thân của Sáng Tạo) như:
- Hòa bình và Hội Nghị Geneve
- Phải bảo vệ nền độc lập văn hóa
- Thực chất văn nghệ cộng sản
- Văn Nghệ và cách mạng
- Chủ nghĩa Mác với văn Ngệ Việt Nam
- Vấn đề giai cấp xã hội
- Nhân sinh quan của người Việt.
Và nếu họ có viết truyện thì truyện cũng mang vóc dáng chính trị. Hà Nội qua tác giả Trần Trọng Đăng Đàn gọi đó là một đường lối chiến lược của Mỹ Diệm. Chẳng hạn truyện ngắn: Người bệnh giữa mùa xuân của Thanh Tâm Tuyền, Đêm giã từ Hà Nội, Góc đường Tự Do, Đồn Phòng Ngự 21 của Mai Thảo. Hay truyện Gánh Xiếc của Doãn Quốc Sỹ rõ ràng ám chỉ cộng sản..Sau này Tô Hoài có quen biết Doãn Quốc Sỹ tự hỏi Cách mạng có nợ tiền, nợ máu gì với cái gia đình công chức quèn là nghề giấy, thế mà sao Doãn Quốc Sỹ chửi cộng sản hăng thế..[4]
Trích: Thanh Tâm Tuyền và những người bạn trước khi có tạp chí Sáng Tạo, Hợp Lưu tháng 8-9, 2010, Dương Nghiễm Mậu, trang 33
Hay trường hợp Võ Phiến với Người Tù, Mưa đêm cuối nămvv..
Thời gian 1954-1955 là thời kỳ khởi sắc, đầy sinh khí của văn học miền Nam. Cả một thế hệ văn học sau tiền chiến bùng phát. Hầu như tất cả đều sắn tay áo, sẵn sàng lên đường với bầu nhiệt huyết tuổi trẻ. Hết Sáng Tạo, rồi Bách Khoa, Hiện Đại, Thế kỷ Hai Mươi, Văn Nghệ, Khởi Hành, Văn vv..
Họ viết hăng. Viết với tin tưởng. Viết mạnh. Viết với sáng tạo. Viết với tìm tòi. Họ- nhất là Mai Thảo- hầu như được coi như hướng đi của văn nghệ miền Nam lúc bấy giờ. Và điều quan trọng nhất nơi họ. Đó là họ tạo ra một niềm phấn khởi như Mai Thảo từng viết: Đem ngọn lửa Văn hóa vượt vĩ tuyến sáng lên ở đây hôm nay.
Năm 19545 còn ghi lại, chói lói, cái đẹp ấy của mùa mới, cái đẹp ấy của lên đường. Ta từng đi chật đất. Ta từng có lớp lớp. Ta từng đến hàng hàng. Những khởi đầu của từng hoạt động văn học, từng phát động nghệ thuật nói chung của ta tuyệt đúng, tuyệt đẹp.
Sự hứng khởi ấy chắc hẳn lây lan sang các tác giả khác như Vũ Hoàng Chương. Như Nhất Linh quyết định hạ sơn, chiêu tập lại nhân tài lại làm báo và gây được những ấn tượng mạnh nơi các người thanh niên trẻ như chúng tôi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Chỉ rất tiếc là niềm phấn khởi đó không bao lâu lịm tắt-và dần để lộ ra chỉ là một thứ làm dáng trí thức- một lối chơi chữ kêu rổn rảng mà nội dung không đi đôi với ngôn từ.
Sáng Tạo, thoái thân của tờ Người Việt đình bản trước đó có mặt với Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền vào năm 1956 với Doãn Quốc Sỹ, Duy Thanh, Nguyễn Sỹ Tế, Thái Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên và Trần Thanh Hiệp.
Nhưng ngoài các người viết mới vừa kể trên, Sáng Tạo còn có nhiều nhà văn thuộc thế hệ tiền chiến hoặc ngoài nhóm như: Vũ Hoàng Chương, Lê Văn Siêu, Nguyễn Đình Hòa, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Duy Diễn, Lê Thương, Lê Cao Phan, nhà thơ Nguyên Sa, Nguyễn Phụng, Lữ Hồ hoặc những người như Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Tạ Tỵ, Vĩnh Lộc, Thanh Nam, Tô Kiều Ngân.
Sau này trong Sáng Tạo, bộ mới năm 1960 có thêm Trần Dạ Từ, Viên Linh, Thảo Trường, Trần Thị Nhã Ca, Thạch Chương, Sao Trên Rừng và Dương Nghiễm Mậu.
Khi ra hải ngoại, vào năm 1958, Nguyên Sa Trần Bích Lan đã thu tóm văn học miền Nam thời kỳ đó vào bốn khối lớn là:
- Nhóm Sáng Tạo của Mai Thảo
- Nhóm Đất nước của Nguyễn Văn Trung
- Nhóm Bách Khoa của Võ Phiến
- Nhóm thứ tư, những nhà văn, nhà thơ độc lập như Vũ Hoàng Chương, Du Tử Lê, Đinh Hùng, Trần Dạ Từ..
Tôi nghĩ rằng, nhận xét của Trần Bích Lan có tính cách tán dương nhiều hơn là sự thật. Sự xếp loại như vậy có phần gượng ép.
Sau Sáng Tạo thì tiếp nối theo một số tạp chí như Hiện Đại do Nguyên Sa chủ trương. Trong tờ Hiện Đại, người ta cũng thấy sự có mặt của bốn tác giả trong bộ biên tập Sáng Tạo là Duy Thanh, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ. Hiện Đại ra được 9 số thì đình bản.
Tạp chí Thế Kỷ Hai Mươi do Nguyễn khắc Hoạch chủ trương biên tập quy tụ thêm một số giáo sư đại học như Nguyễn Khắc Hoạch, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Thanh Lãng, Nguyễn Đăng Thục và một số cây viết của Sáng Tạo.
Không khí nhộn nhịp, sôi động của một nền văn nghệ mới của cái hôm nay thay thế và đoạn tuyệt với quá khứ xem ra đến đây thì khựng lại.
Mai Thảo một mình một cõi, ngất ngưởng một chiếu trước đây xem ra đã cạn dòng. Một chữ cũng Mai Thảo, một câu cũng vẫn là Mai Thảo của Nguyễn Đình Toàn xem ra lời khen không còn đúng chỗ nữa.. Vẫn viết như thế mặc cho tình thế đổi thay. Cái hào khí Đêm Giã từ Hà Nội không còn nữa. Mai Thảo năm 1954 không khác gì Mai Thảo thập niên 1960 và nhất là sau 1963..
Tiền tài trợ của Mỹ qua trung gian Trần Kim Tuyến không còn nữa.. Các tờ tập san lần lượt thi nhau rụng, không kèn không trống..
Có một khựng lại trong sinh hoạt văn học. Không có tiền tài trợ, những người như Mai Thảo quay ra viết feulleton, kiếm sống. Chữ nghĩa tụt dốc chỉ còn là cái cần câu cơm.
Nguyễn Mạnh Trinh đã lột tả hết nỗi cô đơn bất hạnh của một nhà văn sáng giá nhất từ miền Bắc di cư vào miền Nam lúc cuối đời qua ngòi bút của nhà văn Tuấn Huy:
Tâm tư cô đơn xót đau ấy có lẽ những người trẻ hơn khi đêm khuya đưa ông về phòng đã chứng kiến. Nhà văn Tuấn Huy, một người hay đưa ông về lúc canh khuya kể lại những giây phút ấy:
Chiếc chìa khóa nhỏ được móc ra từ đáy túi. Giơ lên rung rẩy dưới ánh sáng của ngọn đèn lờ mờ.. cuối cùng mới trúng ổ. Cửa mở. Anh loạng choạng bước vào. Đèn phòng bật sáng. Những kệ sách đầy kín. Những bức tranh, những khung hình thờ ơ, câm lặng. Chợt bàn tay trái của anh xô mạnh đống giấy tờ bừa bộn trên bàn. Anh mất thăng bằng, té bổ ngửa người ngay trên chiếc ghế dựa giữa bàn viết. Tôi hơi hoảng hốt đỡ anh lên. Một thân thể nhẹ hẫng gầy còm, rũ rượi.. Tôi dìu anh đến bên chiếc giường và lo âu hỏi: Anh có sao không Anh? Chỗ ở đầu của anh có việc gì không? Anh gượng gạo kéo lại tay áo rồi trả lời dấm dẳng:Không sao hết.. ngã thế đã ăn nhằm gì.. chết mẹ nó đi được cũng chẳng sao.. Tôi thật tâm ái ngại: Anh lớn tuổi rồi phải cẩn thận. Ở một mình mà lỡ té ngã là nguy hiểm lắm.. Anh vẫn ngang ngược, gạt di: Nguy hiểm cái đếch gì, không sao cả. Bao nhiêu người còn khốn khổ hơn mình nhiều..
Tôi đứng lặng nhìn Anh. Phút giây tôi ứa nước mắt. Chưa bao giờ tôi thương anh cho bằng phút này. Dù rằng từ trước đến nay, đã hơn một lần, tôi xót xa ái ngại cho anh.[5]
Tạp ghi Văn Nghệ, Nguyễn Mạnh Trinh, trang 28-29
Cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 và sự chấm dứt dòng hội nhập của người miền Bắc sau chín năm của Đệ nhất cộng hòa miền Nam
Biến cố Phật giáo đi đến thành công nhờ có ba thành phần sau đây: giới Phật giáo miền Trung do TT Trí Quang cầm đầu. Sự ủng hộ và tiếp tay gián tiếp đằng sau của chính quyền Mỹ qua đại sứ CabotLodge và nhóm sĩ quan cầm đầu với Trần Thiện Khiêm- Dương Văn Minh- Trần Văn Đôn.
Mục tiêu của cuộc đảo chánh là để lật đổ: Một chính thể độc tài và kỳ thị đàn áp Phật giáo.
Câu hỏi đặt ra cho mọi người miền Nam ngày hôm nay là cả hai mục tiêu trên có thực hiện được không và đạt được gì sau cái chết của hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu?
Không mấy ai dám bày tỏ một cách thẳng thắn thành quả về biến cố chính trị 1963.
Hậu quả là sự tan rã, rối loạn về mặt chính trị, quân sự, kinh tế và xã hội.
Hơn ai hết, các nhà văn, nhà báo uy tín thời đó- do nhạy cảm hơn cả- đã bầy tỏ sự chán chường, thất vọng và mất niềm tin nơi họ bằng nhiều cách thức khác nhau.
Quan trọng nhất là sự mất niềm tin vào chính nghĩa quốc gia trong khả năng đương đầu với cộng sản.
Võ Phiến sau này klhi ra hải ngoại đã bày tỏ tâm trạng chán chường của các nhà văn trong Văn Học miền Nam, tổng quan, vào năm 2000..[6]
[7] Văn học miền Nam tổng quan, Võ Phiến,m trang 245 trở đi
Đó là các nhà văn, nhà báo như Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng, Võ Phiến, Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Hoàng Chương và những nhà báo trẻ như Phan Nhật Nam và Dương Nghiễm Mậu..
Và đối với các nhà văn miền Bắc di cư nói chung có sự khựng lại, có sự chuyển hướng, có sự tránh né, buông xuôi như một Mai Thảo( Một người từng tuyên bố- một người di cư không có quyền ngán một điều gì)- có người nấp vào Thiền, vào tôn giáo, vào dịch thuật..
Sách Thiền và nhất là sách dịch nở rộ lên đến nỗi vào thập niên 1970, nó chiếm đến 75% thị phần sách xuất bản ở miền Nam.
Tâm sự chán chường, buông xuôi ấy tiêu biểu trong một bài phỏng vấn Vũ Hoàng Chương- một Vũ Hoàng trước đây lồng lộng tin tưởng và hăng say trong tập thơ Hoa Đăng- và một Vũ Hoàng Chương tuyệt vọng sau này:
Tôi bây giờ chỉ chờ ngày chết thôi. Lắm lúc muốn tự tử. Thơ không viết nữa, giá viết cũng không người đọc. Đoc tâm sự ấy, Nguyễn Mạnh Côn kêu lên: Câu tâm sự thoáng qua nghe mà lạnh gáy. Tôi về rồi, một tuần sau trở lại, yêu cầu anh xác nhận, anh gật đầu.
Cho nên kể từ sau 1963, dòng hội nhập văn hóa, văn học từ phía Bắc chói sáng một thời đã chết dần, chết mòn- chết nhiều kiểu, nhiều cách và chết hẳn vào 1970..
Thay vảo đó, chiến tranh mỗi ngày mỗi gia tăng, sự có mặt đông đảo của người Mỹ và đồng minh đã tạo ra một dòng văn học dấn thân ở miền Nam. Dòng văn học này nặng tính cách chính trị ảnh hưởng trực tiếp do chiến tranh mỗi ngày một tàn khốc.;
Dòng văn học này không còn phân biệt các nhà văn Nam- Bắc, nhưng nói lên thân phận con người trong chiến tranh. Một mặ nó nói lên sự tàn khốc của chiến tranh và khát vọng một nền hòa bình và chấm dứt chiến tranh.
Nó không hẳn là phản chiến. Và vì thế cần phân biệt ra nhiều loại.
Từ phản chiến có thể mang nghĩa tiêu cực thường để chỉ định những thành phần nghiêng về phía bên kia như trường hởp Trịnh Công Sơn, Ngụy Ngữ, Kinh Dương Vương, Thái Luân, Trần Hữu Lục, Thế Vũ, Thích Nhất Hạnh..
Hoặc chỉ định họ những người đãn quyết định chọn ngản hẳn về phía bên kia như Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín (trước 1975), Thế Nguyên, Vũ Hạnh, Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn, Trương Thìn, Lý Chánh Trung, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Dương Van Ba, Đinh Xuân Dũng, Châu Tâm Luân, dân biểu Lê Tấn Trạng, Lê Văn Nuôi, dân biểu Nguyễn Hữu Hiệp, dân biểu Nguyễn Văn Binh, db Tư Đồ Minh,Thạch Phen, luật sư Trần Ngọc Liễng, Thích Hiển Pháp, Thích Minh Nguyệt, thầu khoán Nguyễn Văn Hạnh, ni sư Huỳnh Liên, bà Ngô Bá Thành, nữ nghệ sĩ Kim Cương, Lý Quý Chung, nghị sĩ Hồng Sơn Đông, Mường Mán.
Loại thứ ba, mượn danh nghĩa phản chiến, nhưng là cộng sản thứ thiệt như Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy, Cao Thị Quế Hương,, Trương Thị Kim Liên, Lê Thành Yến, Hoàng Phủ Ngọc Tường, HPN Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Lê Công Giàu, họa sĩ Ớt, Lm Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần..và Vương Đình Bích..Ngô Kha, Mường Mán, Trần Vàng Sao, Tiêu Dao Bảo Cự..
- Bên cạnh đó, một số lượng đông đảo các nhà thơ được coi như chống lại chiến tranh, từng là binh sĩ, sĩ quan trong quân độ VNCH. Họ bầy tỏ một tâm trạng của những người lính ngoài mặt trận và làm một thứ văn chương xám, nhìn cuộc chiến với một mầu đen. Hơn ai hết họ là những người tham dự trực tiếp vào cuộc chiến ấy- Họ có thể là nạn nhân của cuộc chiến. Có người đã ngã xuống và bỏ thây ngoài mặt trận, người mang tàn phế. Họ là Doãn Dân, Y Uyênvv.. Trong một tuyển tập thơ dày 854 trang với sự quy tụ của 263 nhà thơ, do nhà văn Trần Hoài Thư biên soạn với lời nhà xuât bản:
- Đây là những trang thơ được sưu tập từ một thời kỳ đen tối của quê hương..
Hy vọng tập sách này là một nguồn tài liệu giúp cho những nhà phê bình văn học, những người nghiên cứu văn học sử, và những ai chưa có dịp tiếp cận với nền văn chương miền Nam trong thời chiến tranh để họ có cái nhìn rõ và đứng đắn hơn về một dòng văn chương tình tự, rất là tự do, khai phóng, sáng tạo và nhân bản…[8]
Thơ miền Nam trong thời chiến, Tủ sách di sản văn chương Việt Nam, Thư ấn quán xuất bản, 2006.
Xin trích một đoạn thơ tiêu biểu, đậm tình người:
Dù chỉ một ngày ngưng bắn đó con
Cũng đem chiếc áo lành ra mặc
Cũng ăn một bữa cơm cho no
Cũng ngủ một giấc trên giường trên chiếu
Khổ đau lúc này mẹ gói trong mo
(Trích thơ Hồ Minh Dũng)
Trời mưa, không lớn lắm
Nhưng đủ ướt đôi đầu!
Tình yêu không đáng lắm
Nhưng đủ làm.. tiêu nhau!..(..0
Em phải nằm xuống trước
Ám ảnh một đời ta!!
(Trích Thơ Khởi Tự Mê cuồng- Nguyễn Tất Nhiên-.
Văn thơ miền Nam là một dòng thơ để lại mà nhiều người nay đã không còn nữa. Trong trường hợp Nguyễn Tất Nhiên đã để lại những dòng thơ tình bất hủ giữa lòng cuộc chiến như Khúc buồn tình, Đám đông, Ma soeurvv…
Có những nhà văn thuộc thế hệ sau di cư, những người trực tiếp trong cuộc chiến có thái độ phẫn uất như Phan Nhật Nam, Dương Nghiễm Mậu. Nhã Ca, Lê Tất Điều..hay những người khác như Thế Uyên hay Chu Tử, Tha3on Trường, Từ Chung vừa chống cộng sản, vừa bất mãn với chính quyền.
Nhưng có một số thành phần những trí thức, phần lớn gôc gác miền Trung cần được bàn riêng ở đây và thái độ chính trị của họ đã gây nhiều tác hại không ít cho chính quyền VNCH không ít.
Sau 1963, ông Diệm và ông Nhu mặc dầu không không còn nữa.
Họ đã chết. Nhưng chế độ của đệ nhất cộng hòa vẫn còn đó. Người ta nói đến một chế độ Diệm không Diệm.
Người ta mới thực sự mới lật đổ được một cái ghế, nhưng chưa thay đổi được chế độ ấy.
Vì thế, tờ Lập Trường, ngoài Huế do ông Tôn Thất Hanh làm chủ nhiệm, ông Lê Tuyên làm chủ bút và Cao Huy Thuần làm Tổng thư ký, tòa soạn đặt tại 17 B, Lý Thường Kiệt, Huế cho rằng cuộc cách mạng còn dang dở, chưa làm xong, cần tiếp tục. Có thể nói trắng ra là họ muốn nhổ cỏ thì cần nhổ tận rễ.
Họ muốn tiếp tục con đường cách mạng, nghĩa là quét sạch những tàn tích dơ bẩn của quá khứ. Những rác rưởi dơ bẩn đó, ở Việt Nam, đã cao lên ngút đầu trong 9 năm qua, phi quân đội, không lực lượng nào có thể quét sạch được…[9]
Trích bài Mở Một nước cờ, tờ lập Trường, thứ bảy 6-6-1964
Và họ đặt vấn đề: Hôm nay, chúng tôi muốn đặt câu hỏi đó ra trước chínhquyền: Nhân dna6 đã trao quyền cho các tướng lãnh để thi hành trọng trách quét sạch quá khứ; trọng trách đó, chính quyền đã làm xong chưa?
Đây là những thành phần tả phái cực đoan, quá khích đến cùng cực. Họ bất mãn, họ đả phá tất cả. Họ chống công giáo qua trung gian các thành phần được gọi là Cần Lao còn sót lại trong chính quyền. Họ chống chiến Tranh, chống một chính phủ quân nhân, chống sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam. Nghĩa là họ chống tất cả.
Chẳng hạn họ đã đốt thư viện của Mỹ ở Huế. Chửi Mỹ như thể giọng điệu cộng sản đòi Mỹ rút quân, Mỹ Go Home.
Trong thực tế, họ cổ súy một chiến dịch diệt Cần Lao bằng cách ủng hộ chuyện tử hình Phan Quang Đông, rồi sau Phan Quang Đông họ làm áp lực qua ông Trí Quang để đưa Đặng Sỹ ra tòa. Nhưng dưới áp lực của TGM Nguyễn Văn Bình, Đặng Sỹ chỉ bị kết án 20 năm tù..
Ngay tại huế, họ lật đổ vai trò của linh mục Cao Văn Luận trong chức viện trưởng đại học..
Họ làm áp lực buộc viện trưởng Viện Đại Học Huế phải từ chức và ra đi..Trước tình hình căng thẳng như vậy, một số giáo sư đại học đã xin đổi vào Sài Gòn.
Nhất là họ lập ra một Hội Đồng gọi là Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc mà danh xưng cũng như cách hành động na ná như một tổ chức của Việt Minh, cộng sản. Nhiều viên chức trong chế độ cũ lo sợ bị trả thù.
Ít tháng sau, không biết vì lý do gì tổ chức và tờ báo này đóng cửa. Nhưng nó cũng là cớ khai mào ra nhiều phong trào thanh niên, sinh viên Phật Tử đoàn ngũ lại và hệ quả của việc này gây tình trạng xáo trộn liên tiếp ba năm liền- Miền Trung gần như một miền dất tự trị dưới sự ủng hộ của quân đội do tướng tướng Nguyễn Chánh thi cầm đầu-. một thứ chính quyền bên trong một chính quyền- cho đến khi ông Trí Quang bị dẫn độ về Sài Hòn và ông đã tuyệt thực 100 ngày tại Dưỡng Đường Duy Tân của bác sĩ Tài. Tướng Thi buộc phải rời VN, sang Mỹ chữa bệnh, phong trào tranh đấu miền Trung mới tạm yên ổn..
Sau 100 ngày tuyệt thực không đạt được kết quả gì, ông Thích Trí Quang theo lời khuyên của Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, ông đã rút lui về ở ẩn cho đến 1975, rồi sau này nữa, ông vẫn giữ thái độ tịnh khẩu.
Sau ba năm xáo trộn, các thành viên của nhóm thiên tả cực đoan miền Trung phân tán, ngả rẽ làm ba loại.
- Một loại, nhờ có thế, cách này cách khác, một số tìm đường ra ngoại quốc du học như trường hợp Thái Kim Lan, Cao Huy Thuần vv.. Với tư cách sinh viên, họ tụ lại và thành lập nhóm sinh viên phản chiến- gọi là thành phần thứ ba- cấu kết với sinh viên nơi họ cư ngụ. Họ tổ chức biểu tình chống chiến tranh- một cách gián tiếp chống Mỹ và chính thể VNCH. Ở trong nước, họ quậy phá một cách, ra ngoại quốc, họ quậy phá một cách khác. Tâm tình của họ, thái độ của họ, đời sống của họ, hoạt động của họ luôn luôn đẩy họ về phía đối lập, chống đối VNCH. Họ hãnh diện về thành tích và việc làm của họ ở trong nước cũng như khi ngoài nước.
- Một số lớn còn lại, tiếp tục ăn học trở thành những sĩ quan, công chức của VNCH. Nhưng họ sống với nhiều hoang mang, trăn trở ở cái tình trạng mà Trịnh Công Sơn gọi là: Tiến thoái lưỡng nan. Một số nhỏ, che dấu cái quá khứ của họ hoặc tham gia chính quyền, hoặc ra tranh cử dân biểu như trường hợp Hoàng Văn Giàu đi theo Bùi Tường Huân. Một số tham gia chính quyền với tư cách dân biểu với sự đỡ đầu của Phật giáo. TT. Trí Quang chắc hẳn đã bảo trợ và đỡ đầu cho các dân biểu này.. Với tư cách dân biểu, họ đứng trong danh sách các dân biểu đối lập của nhóm Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức quậy phá một cách công khai và hợp pháp, hỗ trợ cho đám sinh viên cộng sản nằm vùng như Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy. Hoàng Văn Giàu, sau khi đi tù cộng sản, ra hải ngoại- vẫn chưa thấm đòn cộng sản tiếp tục giao lưu móc nối với đám Giao Điểm làm cầu nối cho cộng sản. Họ tham gia chính quyền để tranh đấu hợp pháp, không bị cầm tù. Nếu có thể nói đây là những kẻ nội thù của chính quyền miền Nam.
- Còn một số rất nhỏ, vì lộ diện trong việc tranh đấu, vì sợ bị chính quyền VNCH bắt cầm tù đã chạy trốn hẳn sang bên kia như trường hợp anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân..Thái Ngọc San, Tiêu Dao Bảo Cự. Sau này, họ cũng vỡ mộng cộng sản nhưng rơi vào tình trạng gái ngồi phải cọc như trường hợp Tiêu Dao Bảo Cự. Riêng Nguyễn Đắc Xuân, anh ta là người cộng sản hơn cả người cộng sản.
Bắng cách nào ở vị trí nào, ở trong nước hay ở hải ngoại. Đám người cực đoan và quá khích- một số nhõ- miền Trung cũng chống phá VNCH trong suốt hai mươi năm miền Nam và sau này ở Hải Ngoại..
Tôi xin xác nhận, họ không phải là cộng sản thứ thiệt, nhưng việc làm của họ, việc tranh đấu của họ trở thành thứ nối giáo- kẻ nội thù- cho người cộng sản.
Người ta có cảm tưởng chống phá là lý lẽ đời sống của đời họ. Họ sinh ra để chống phá. Và họ chỉ thực sự lớn lên trong khí thế tranh đấu bạo động.
Nhiều người trong bọn họ chắc chắn không phải là cộng sản. Nhưng một điều chắc chắn họ cũng không bao giờ là những người con dân của miền Nam.
Nhận định về các thành phần trí thức trong các tờ Hành Trình, Đất Nước..và Trình Bầy
Sau biến cố chính trị 1963, một số trí thức miền Nam- trăn trở trước tình hình đất nước- thấy không thể ngồi yên. Họ thấy cần làm một điều gì, thấy cần lên tiếng và nhất là thấy cần phải bầy tỏ một thái độ nhập cuộc, phải dấn thân không thể ngồi trong tháp ngà của suy tưởng lý thuyết suông.
Trong số trí thức ấy có hai người là các ông Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung chủ trương tờ Hành Trình vào tháng 10- 1964 và sau này tờ Đất Nước.
Do vị thế trí thức của họ với giới sinh viên, họ thu hút được một số trí thức khuynh tả và giới trẻ đi theo họ.
Danh sách những thành phần trí thức viết cho Hành Trình bao gồm một số linh mục như Đỗ Phùng Khoan, tức linh mục Nguyễn Huy Lịch, Võ Hồng Ngự, tức nhà thơ Diễm Châu, Trần Trọng Phủ, tức nhà văn Thế Nguyên.( Thế Nguyên là một người đi theo cộng sản và sau này làm chủ bút tờ Trình Bày). Trương Cẩm Xuyên, tức linh mục Trương Đình Hòe, Hương Khuê, tức linh mục Trương Bá Cần, linh mục Nguyễn Ngọc Lan, giáo sư Trần Văn Toàn, các nhà Văn như Thảo Trường, Thái Lãng, Nguyễn Vũ Văn, Lê Tất Hữu, Thế Uyên, Trịnh Viết Đức, chủ nhà in Nam Sơn- người tài trợ cho việc in ấn.
Trong lời nói đầu ghi:
- Không thể tìm ra một lối thoát thực sự nếu không dám đụng đến những nguyên nhân sâu xa là nguồn gốc tình trạng đang rơi vào suy sụp hoàn toàn. Tạp chí Hành Trình ra đời nhằm phê phán đến tận cùng những nguyên n nhân sâu xa đó, để góp phần tìm ra một lối thoát thực sự và hiệu nghiệm ».[10]
Hành Trình, số 1, tháng 10-1964
Tờ báo mặc dầu chỉ ra được hơn mười số, đã có một tiếng vang cả trong lẫn ngoài nước cũng như dư luận Hoa Kỳ và Ngoài Bắc.
David Marr, vừa tốt nghiệp đại học sang VN đã cho dịch những bài báo của Nguyễn Văn Trung và cho đăng trên các báo Mỹ và các cơ quan truyền thông của công giáo Mỹ như các bài: (War, Peace, and Revolution) Hoặc bài Our problems: Ourselves.
Trong số những bài viết phản biện có các bài từ Miền Bắc lên tiếng sớm nhất như bài : Từ Chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam, thực chất và huyền thoại đến Hành Trình, của Phong Hiền, tháng 4 năm 1965 và bài của Tam Thanh, đọc Nhận Định 4 của Nguyễn Văn Trung.
Phía VNCH có bài nhan đề: Phê bình quan điểm Cách mạng xã hội của hai ông Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh trung, Nguyễn Văn Bảy, Sài Gòn 10-1967. Và bài : Nghĩ về một số trí thức ảo tưởng.. Ánh Việt, đăng trên Chính Luận, 10-1971.
Đặc biệt cho đến sau 1975, còn có những loại trí thức nằm vùng lôi câu truyện 10 năm về trước viết bài nhằm tâng công với cộng sản, Nguyễn Trọng Văn viết bài tham luận nhằm, phê phán Nguyễn Văn Trung nhan đề: Chủ nghĩa xã hội không cộng, tại miền Nam Việt Nam, thời Mỹ- Ngụy- Nội Dung và ảnh hường.
Phần Lữ Phương viết bài : Mấy ý kiến về các xu hướng gọi là Cách Mạng xã hội không cộng sản ở miền Nam trước 1975..[11]
Hồ sơ về tạp chí Hành Trình, Sài Gòn 1964-1965, Nguyễn Văn Trung
Tờ báo sau đó đóng cửa không một lời giải thích.
Tờ Đất Nước
Hành Trình đóng cửa, Đất Nước thay thế. Ban biên tập với Chủ nhiệm là nguyễn Văn Trung, Chủn trương biên tập : Lý Chánh Trung, Tổng Thư ký tòa soạn lả Thế Nguyên..
Trước hết, tờ báo có sự cộng tác chính yếu của nhà thơ Nguyên Sa- một Nguyên Sa dấn thân, nhập cuộc không làm thơ tình nữa như trong bài thơ : Tắm hay Sân Bắn.. của ông.
Bên cạnh Nguyên Sa có nhiều cây bút khác như Du Tử Lê, Đinh Phụng Tiến, Hồ Minh Dũng, Lê Văn Ngăn, La Nuyễn, Bùi Khải Nguyên, Nguyễn Quốc Thái, Lê Khoa, Nguyễn Tất Nhiên, Luân Hoán, Thế Phong. Nguyễn Tường Giang, Tần Hoài Dạ Vũ, Lưu Kiển Xuân..Phong Sơn, Thái Lãng
Nhưng sự có mặt của Thế Nguyên trong vai trò Tổng Thư ký tòa soạn- một người theo cộng sản- nên đã có kéo theo nhiều nhà thơ nhà văn thân cộng viết cho tờ báo như các ông: Ngụy Ngữ, Lưu Nghi, Thái Ngọc San, Tôn Thấp Lập, Phạm Thế Mỹ, Ngô Kha, Nguyễn Trọng Văn, Lữ Phương, Trần Hữu Lục.
Chắc chắn ông Nguyễn văn Trung và Lý Chánh Trung hoàn toàn không nắm được vấn đề này.. Họ- nhất là Nguyễn Văn Trung- mất chủ động-, mặc cho Thế Nguyên thao túng về bài vở, tác giả cộng tác, quản lý tiền bạc, nhà in phát hành.
Thế cho nên mang tiếng là báo của trí thức thiên tả, nhưng thực sự chủ động là cộng sản giật giây.
Miền Nam mất cái đà làm chủ tình hình báo chí, văn học, văn nghệ dần dần như thế.
Hãy trích lại giọng điệu trong thơ của Phạm Thế Mỹ sặc mùi tuyên truyền, chống Mỹ, chống chiến tranh như bài:
Những ngày sắp tới
Thưa thầy, họ đã dạy con:
Không có bom đạn Mỹ
Việt Nam mất nước từ khuya
Không có viện trợ Hoa Kỳ
Việt Nam sức mấy..
Đất nước linh thiêng ơi,
Sao họ không chỉ dạy chúng làm toán đại số
Dạy chúng ấm no
Có hơn không?
Giữa Hành Trình và Đất Nước, cộng sản như thể đang ở ngoài nhà, nay đã vào đến trong nhà, vào buồng ngủ..của tờ báo.
Nó lộ liễu và công khai quá..Nó không cần đeo mặt nạ. Tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy tên tuổi những Nguyên Sa, Luân Hoán, Du Tử Lê, Nguyễn Tử Quý, Thảo Trường bên cạnh Ngô Kha, Ngụy Ngữ.
Với cung cách lộn sòng như thế này- không phân biệt tà-ngụy.. cùng đứng chung, xếp hàng.
Miền Nam đang trải qua một mùa gió chướng và những cơn thử thách cuối cùng của một dòng lũ triều cường có thể cuốn trôi và phá sạch tất cả..
Tờ Trình Bầy
Tờ Trình Bày xuất hiện vào tháng 08-1970, cũng lại do Thế Nguyên làm chủ bút và chủ nhiệm.(Thế Nguyên sau 1975 không được trọng dụng, chết lãng xẹt, rất sớm vì bị nhiễm trùng sài uốn ván). Ở giai đoạn chót của miền Nam, Trình Bày ngang nhiên xuất hiện, in ấn đàng hoàng, bất chấp kiểm duyệt, bất chấp tịch thu báo..Ai tài trợ cho tờ báo? Có thể một phần do nhà in Nam Sơn tài trợ. Nhưng phần còn lại là ai? Còn ai vào đây nữa?
Lần này nó lại được tăng cường thêm những cây viết của người quốc gia chân chính, chính hiệu như Phạm Cao Dương, Trần Tuấn Nhậm, Trùng Dương, Nguyễn Đa, Nguyễn Đồng, Chu Vương Miện, Hoàng Ngọc Nguyên, Trần Hoài Thư, Trần Đỗ Dũng, Thanh Lãng, Nguyễn Đăng Thường, Lê Văn Thiện, Trần Huiền Ân, Đoàn Luân, Thuận Giao.
Và làm sao thiếu được Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung. – Những người đứng làm bảng hiệu chính danh và hợp pháp-.
Nhất là nay có thêm sự có mặt của Nguyễn Nguyên- tay trùm cộng sản- núp bóng trong tờ Tin Văn với Vũ Hạnh, Lữ Phương.
Nào ta đếm thử coi, còn thiếu ai nữa, những nhà văn, nhà thơ của miền Nam xem ai là người vắng mặt?
Ở trong tình trạng này, thật khó xếp hạng, thật khó biết ai là người quốc gia, ai là người bị cộng sản lợi dụng và ai là người cộng sản thứ thiệt?
Nếu cần tố cáo thì tố cáo ai nhỉ? Ai là người anh em của ta, ai là kẻ thù? Và hôm nay, nhiều người còn sống sờ sờ trong các cơ quan truyền thông, trong các tờ báo ở Mỹ, ở mọi nơi?
Trong số đầu, thơ Nguyên Sa cặp với Ngô Kha. Nguyễn Khắc Ngữ sánh đôi Nguyễn Quốc Thái, rồi lại Nguyên Sa với Ngụy Ngữ. Bài viết của Phạm Cao Dương đi kèm với bài của Trần Tuấn Nhậm.
Ngay trong lời mở đầu với nhan đề: Con đường đi tới.. Người đọc hiểu thế nào cũng được với thứ ngôn ngữ tuyên truyền bi thảm hóa cuộc chiến như sau:
- Một phần tư thế kỷ đã trôi qua trên cuộc cách mạng mùa thu..Tuy vậy, những hy sinh ròng rã suốt 25 năm trời ấy dường như chưa đủ để cho một dân tộc yêu chuộng hoà bình như dân tộc Việt Nam có thể buông súng xuống vui hưởng tự do.
- Bây giờ vẫn còn những cụ già tóc bạc bị trói tay, bịt miệng, những em bé bất lực quằn quại trên vũng máu, những thanh niên bị đánh đập dã man, những thiếu nữ bị hãm hại.
- Bây giờ vẫn còn những cảnh tra hỏi, bắt bớ ở mỗi nẻo đường, những tiếng hét rùng rợn của những nạn nhân trong những phòng tra tấn,: cả một miền đất nước biến thành một cái chuồng thú vĩ đại. Máu hòa nước mắt. Roi da và thép gai, thép gai trùng trùng, điệp điệp…
- Con đường đi tới là con đường giải phóng: giải phóng đất nước và giải phóng con người Việt Nam toàn diện[12]
Những người quốc gia ở đâu, những chiến sĩ VNCH ở đâu để cho tờ báo thóa mạ VNCH..Những tác giả cộng tác với Trình Bày nay còn sống ở Hải ngoại nay họ nghĩ gì?
Tôi viết phần bài này nhân sắp đến dịp 50 năm năm kỷ niệm 50 năm của nền Đệ Nhất Cộng Hòa..
Sau 1963, Hồ Chí Minh nói với nhà báo thân cộng Wilfrid Burchett:
Tôi không thể ngờ tụi Mỹ nó ngu như thế.
Nguyễn Hữu Thọ của MTGPMN phát biểu:
Sự lật đổ Diệm là một món quà Trời ban cho chúng ta..
Trách ai và trách cái gì bây giờ?
© Nguyễn Văn Lục
© Đàn Chim Việt
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire