Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân
Phạm Tín An Ninh
Hơn hai mươi năm nay, từ ngày đến định cư ở Na-Uy, một nước Bắc Âu
nổi tiếng với những mùa đông dài băng giá, nhưng lại rất đẹp vào
những ngày hè và lãng mạn vào thu, tôi vẫn giữ thói quen đi len lỏi
trong rừng, không chỉ vào những ngày nghỉ cuối tuần mà bất cứ lúc
nào thấy lòng mình trăn trở. Không phải tò mò vì những cuộc tình
cháy bỏng trong “Rừng Na-Uy”, cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mới đây của
một ông nhà văn Nhật Bản, nhưng để được lắng nghe những tiếng khóc.
Tiếng khóc của cây lá, của gỗ đá trong rừng. Tiếng khóc có mãnh lực
quyến dụ tôi, thúc bách tôi, cho dù nó đã làm cho tôi đau đớn, khốn
khổ gần cả một đời.
Tôi sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên ở thành phố Nha Trang, sau khi cùng
cả nhà theo cha tôi vào đây nhận nhiệm sở mới. Có lẽ ngày ấy tôi là
một cô gái khá xinh. Ngay từ năm tôi học lớp đệ lục trường Nữ Trung
Học, cũng đã có vài chàng học trò khờ khạo si tình, đạp xe theo tôi
sau những buổi tan trường. Lên năm đệ tam, cũng có vài chàng sinh
viên sĩ quan Hải Quân, Không Quân chờ trước cổng trường tán tỉnh.
Nhưng như là số trời, trái tim tôi chỉ rung động trước một người.
Anh là bạn chí thân với ông anh cả của tôi, hai người học cùng lớp
từ thời còn ở trường Võ Tánh. Tháng tư năm 68, chúng tôi làm đám
cưới, kết thúc một cuộc tình đầu thật dễ thương, không có nhiều lãng
mạn, cũng chẳng có điều gì trắc trở. Ông xã tôi là lính biệt động
quân. Hậu cứ đóng ở Pleiku. Ngày về làm đám cưới, đôi giày saut của
anh còn bám đầy đất đỏ hành quân. Đám cưới chúng tôi được tổ chức
tại một nhà hàng nằm gần bờ biển, không xa tòa tỉnh, nơi vừa mới
trải qua khói lửa Mậu Thân.
Sau đám cưới, cha mẹ chồng cho tôi theo anh lên Pleiku một tháng,
rồi phải trở về sống ở nhà chồng, bởi anh đi hành quân liên miên,
không an toàn khi tôi phải sống một mình. Chỉ những khi nào tiểu
đoàn về hậu cứ dưỡng quân, anh đánh điện tín để tôi lên với anh.
Mãi đến ba năm sau, tôi mới sinh cho anh đứa con đầu lòng. Một đứa
con trai bụ bẫm. Có lẽ vì nặng nợ với núi rừng, anh đề nghị tôi đặt
tên cho con là Cao Nguyên, Lê Cao Nguyên. Anh về phép thăm con khi
cháu vừa đầy tháng. Càng lớn Cao Nguyên càng giống cha. Đôi mắt to,
sóng mũi cao, và đặc biệt là trên đầu mỗi vành tai đều có một “lỗ
tai nhỏ” như ba nó.
Chỉ đúng một tuần sau khi chia tay vợ con về đơn vị, anh bị thương
nặng trong lúc đơn vị hành quân giải vây căn cứ Pleime. Tôi bồng con
lên Pleiku. Hậu cứ lo cho mẹ con tôi nơi ăn chốn ở và có xe đưa đón
mỗi ngày để tôi thăm và săn sóc anh trong quân y viện. Sau khi xuất
viện, đôi chân còn đi khập khiễng, nên anh được chuyển về Bộ Chỉ Huy
Liên Đoàn đảm trách một công tác tham mưu ở hậu cứ. Mẹ con tôi ở lại
Biển Hồ với anh kể từ ngày ấy. Mẹ chồng tôi rất nhân từ, thường
xuyên lên thăm chúng tôi và thuê cho tôi một người giúp việc. Cuối
năm 1973, trong một lần VC pháo kích vào trại gia binh làm một số
đàn bà con nít bị thương, trong đó có cháu Cao Nguyên. Rất may, mảnh
đạn gây một vết thương khá lớn ở cánh tay, nhưng không vào xương.
Sau hôm ấy, chúng tôi ra thuê một căn nhà bên ngoài doanh trại để ở.
Năm sau, khi Cao Nguyên vừa tròn hai tuổi, tôi sinh đứa con thứ nhì.
Lần này là con gái. Con bé giống mẹ, được chúng tôi đặt tên Thùy
Dương để nhớ thành phố biển Nha Trang, nơi hai chúng tôi lớn lên và
yêu nhau.
Mấy năm sống ở Pleiku, cái thành phố “đi dăm phút trở về chốn cũ”
ấy, những ngày nắng chỉ thấy toàn bụi đỏ, còn những ngày mưa bùn bám
dính gót chân. Pleiku đúng là một thành phố lính. Những người vợ
lính sống ở đây dường như chỉ để chờ chồng trở về sau những cuộc
hành quân, hoặc để chăm sóc chồng những ngày bị thương nằm trong
quân y viện. Với họ thì đúng là “may còn có anh đời còn dễ thương”.
Trong số ấy đã có biết bao người trở thành góa phụ!
Giữa tháng 3/75, sau đúng một tuần Ban Mê Thuột mất vào tay giặc,
một buổi sáng, từ bản doanh Liên Đoàn về, chồng tôi hối hả bảo mẹ
con tôi và chị giúp việc thu dọn đồ đạc gấp, bỏ lại mọi thứ, chỉ
mang theo những gì cần thiết, nhất là thức ăn và sữa cho các con,
theo anh vào hậu cứ.
Khi vừa đến cổng trại, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người đều
đã ngồi sẵn trên xe. Chúng tôi rời khỏi doanh trại. Thành phố Pleiku
như đang ngơ ngác trước những người từng bao năm sống chết với mình
nay vội vàng bỏ đi không một tiếng giã từ. Đang giữa mùa xuân mà cả
một bầu trời u ám. Pleiku tiễn chúng tôi bằng một cơn mưa đổ xuống
khi đoàn xe vừa ra khỏi thành phố. Đến ngã ba Mỹ Thạnh, đoàn xe dừng
lại. Phía trước chúng tôi dày đặc xe và người, vừa dân vừa lính, đủ
các binh chũng, đủ các loại xe, kể cả xe gắn máy. Tôi nghe chồng tôi
và bạn bè nói là một số đơn vị Biệt Động Quân được chỉ định đi sau,
ngăn chận địch quân tập hậu để bảo vệ cho đoàn quân di tản! Đây là
trách nhiệm nguy hiểm và nặng nề nhất trong một cuộc hành quân triệt
thoái.
Hơn một ngày mò mẫm trên Tỉnh Lộ 7, chúng tôi đến thị xã Hậu Bổn vào
lúc trời sắp tối. Vừa dừng lại chưa kịp ăn cơm thì bị pháo kích và
súng nổ khắp nơi. Xe và người dẫm lên nhau trong cơn hốt hoảng. Địch
đã bao vây. Các đơn vị biệt động quân chống trả kiên cường, nhưng địch quá
đông, và bên ta thì vừa quân vừa dân chen chúc nhau hỗn độn. Trong
lúc nguy nan này trời lại giáng xuống cho bên ta thêm một điều bất
hạnh: Một chiếc phản lực cơ dội bom nhầm vào quân bạn. Đoàn xe vội
vã rời Hậu Bổn, di chuyển đền gần Phú Túc thì lại bị địch tấn công
từ khắp hướng. Nhiều xe bốc cháy và rất nhiều người chết hoặc bị
thương. Cả đoàn xe không nhúc nhích được. Chúng tôi có lệnh bỏ lại
tất cả xe cộ, băng rừng tìm đường về Củng Sơn. Chồng tôi, vừa chiến
đấu vừa dẫn đường chúng tôi cùng một số binh sĩ, vợ con. Tôi dắt
theo Cao Nguyên còn chị giúp việc bồng cháu Thùy Dương. Chúng tôi
lầm lũi trong rừng. Tiếng súng vẫn còn ầm ĩ, những viên đạn lửa như
muốn xé màn đêm. Khi chúng tôi mệt lả cũng là lúc đến bờ một con
sông nhỏ. Chồng tôi lo chỗ ngủ cho mẹ con tôi dưới một gốc cây, rồi
cùng một số đồng đội chia nhau canh gác. Mệt quá, tôi ngủ vùi một
giấc, thức dậy thì trời vừa sáng. Chúng tôi lại tiếp tục lên đường.
Tôi không còn đủ sức để bồng Cao Nguyên, nên chồng tôi phải dùng cái
võng nilong gùi cháu sau lưng, bên ngoài được phủ bằng cái áo giáp.
Vừa ra khỏi bìa rừng tôi ngạc nhiên khi thấy từng đoàn người lũ lượt
kéo nhau đi cùng hướng chúng tôi, trong đó có nhiều người vừa bị
thương, mình đầy máu. Tôi nghĩ họ cũng là những vợ chồng, con cái,
cha mẹ dắt dìu nhau đi tìm sự sống. Hình như họ không còn mang theo
bất cứ thứ gì. Nhìn nét mặt ai nấy cũng kinh hoàng. Chồng tôi bàn
bạc cùng một số bạn bè trong đơn vị, chúng tôi lại tách khỏi đám
đông này, tìm một lộ trình khác mà đi, để tránh sự phát hiện của
địch. Vừa rời đoàn người vài phút thì đạn pháo thi nhau rót xuống.
Tiếng la khóc thất thanh cộng với tiếng súng nổ khắp nơi làm cho cả
một khu rừng như trải qua một cơn địa chấn. Trong nhóm chúng tôi
cũng đã có một số người chết. Đến lúc này thì mạnh ai nấy tìm đường
sống. Gia đình tôi cùng gia đình vài người bạn nữa chạy vào khu rừng
phía trước, nơi không nghe tiếng súng. Kinh nghiệm bao nhiêu năm
chiến trận, bây giờ chồng tôi chỉ còn dùng để mong cứu được vợ con
mình. Địch quân tràn ngập. Một số đơn vị tan rã. Đồng đội kẻ chết
người bị thương. Có thể một số đã bị bắt. Tôi không thể tưởng tượng
được số mệnh bi thảm của những người lính biệt động một thời oanh
liệt trên khắp chiến trường, giờ này lại tan tác trong bất ngờ, tức
tưởi! Chồng tôi suýt bật khóc, khi nghe cấp chỉ huy truyền lệnh từ
ông tướng tư lệnh Quân Đoàn: “Đạp lên mà đi!” Trong cả đời binh
nghiệp, chắc những người lính không còn nhận cái lệnh nào đau đớn
hơn thế nữa!
Sau chừng một tiếng đồng hồ băng rừng, chúng tôi bất ngờ gặp một
toán lính hơn 20 người thuộc tiểu đoàn cũ của chồng tôi. Thầy trò
chưa kịp nắm tay mừng rỡ thì súng nổ. Địch quân phía trước mặt. Trở
lại cương vị chỉ huy, chồng tôi lưng mang con, điều động anh em xông
vào trận mạc. Một cuộc đánh tốc chiến, toán địch quân bị tiêu diệt.
Chồng tôi quay lại tìm và hướng dẫn đám đàn bà con nít chúng tôi đi
tiếp. Trong núi rừng đêm xuống thật nhanh. Cái bóng tối bây giờ thật
rợn người. Tôi hình dung đến cái bóng của tử thần. Chúng tôi dừng
lại trên một ngọn đồi thấp. Tội nghiệp cho những người lính trung
thành. Đáng lẽ họ lợi dụng bóng đêm để đi tiếp, vì đó là sở trường
của họ, nhưng thấy một số vợ con bạn bè cùng vài anh em bị thương
không thể đi nổi, nghe lời chồng tôi, tất cả cùng ở lại qua đêm. Sau
khi sắp xếp anh em phòng thủ, chồng tôi trở lại phụ lo chỗ nằm cho
mẹ con tôi. Tối hôm ấy, dù mệt, nhưng sao tôi cứ trằn trọc, không
ngủ được. Chồng tôi ôm tôi dựa vào một gốc cây. Anh ôm tôi thật chặt
vào lòng, thỉnh thoảng hôn nhẹ tôi, trên môi, trên tóc. Trong hoàn
cảnh này chẳng ai còn lòng dạ nào để lãng mạn yêu thương, nhưng có
lẽ anh đang tội nghiệp cho một người con gái đã trót chọn chồng là
lính chiến. Và không ngờ đó lại là những nụ hôn cuối cùng anh dành
cho tôi. Buổi sáng sớm khi vừa xuống chân đồi, chúng tôi chạm súng
với địch. Cũng là lần cuối cùng tôi chứng kiến những người lính biệt
động can trường. Các anh phân tán từng toán nhỏ, xông vào lòng địch
mà đánh, tiếng thét “Biệt Động Quân Sát” vang dội cả một vùng. Nghe
súng nổ, tôi đoán lực lượng địch đông lắm. Một anh trung sĩ bị
thương ở cánh tay trong trận đánh hôm qua, được chỉ định dắt tất cả
đám đàn bà con nít chúng tôi ra khỏi vùng giao chiến. Đã vậy anh còn
phải dìu theo một người lính bị thương khác.Vợ chồng tôi thất lạc
nhau kể từ phút ấy. Tôi còn lạc mất cả cháu Cao Nguyên, được ba nó
gùi theo phía sau lưng ngay cả những khi lâm trận. Không biết chiếc
áo giáp có đủ che chắn hình hài bé nhỏ của con tôi. Hình ảnh này
trước đây tôi nghĩ chỉ có diễn ra trong mấy cuốn truyện Tàu mà tôi
đã đọc.
Tiếp tục di chuyển chừng vài giờ đồng hồ nữa, khi tới một con đường
mòn, chúng tôi lại nghe súng nổ. Anh trung sĩ dẫn đường chúng tôi
nhận ra từng loạt lựu đạn nổ, bảo tât cả chúng tôi nằm rạp xuống.
Chờ im tiếng súng, đám chúng tôi rời con đường mòn, chạy về hướng
rừng bên phải, mà theo anh trung sĩ, có thể an toàn hơn. Khi đến bìa
rừng, tôi bàng hoàng nhìn thấy mấy người lính biệt động quân nằm
chết bên cạnh xác quân thù, máu me lai láng. Sau này tôi được biết
những người lính này bị địch bao vây, đã tự sát để cùng chết chung
với giặc. Đi vào cánh rừng bên phải chỉ vài trăm mét nữa thì chúng
tôi bị một đám khá đông VC chặn lại. Anh trung sĩ bị tước hết vũ
khí. Tất cả chúng tôi bị lùa vào bên bờ suối nhỏ. Ở đây tôi gặp một
số sĩ quan, binh sĩ của ta bị bắt, nhiều người tay bị trói ngược ra
sau, ngồi theo hàng dọc quay lưng ra suối, trước họng súng sẳn sàng
nhả đạn của kẻ thù. Tôi cố ý tìm xem, nhưng không thấy chồng tôi
trong số người bị bắt. Lòng tôi lo âu vô hạn. Từ lúc ấy, tiếng súng
tạm im, chỉ còn tiếng quát tháo với cái giọng rất khó nghe của đám
người thắng trận. Tất cả chúng tôi bị lùa về địa điểm tập trung, một
ngôi trường nằm trong huyện Củng Sơn (Sơn Hòa).
Trong cảnh khốn cùng này, tôi chỉ còn lại một điều may mắn. Chị giúp
việc rất tốt bụng và trung thành. Vừa bồng bế, bảo bọc cho cháu Thùy
Dương, vừa lo lắng cho tôi. Chị đi đâu đó xin cho tôi nửa bát cơm,
nhưng tôi không nuốt nổi, mặc dù đã trải qua hai ngày đói khát. Nhìn
đứa con gái vừa mới lên hai lây lất bên cạnh và nghĩ tới chồng tôi
và đứa con trai giờ này không biết sống chết ra sao, lần đầu tiên
tôi bật khóc.
Cuối cùng thì tôi cũng lần mò về đến Nha Trang, khi thành phố này
cũng vừa lọt vào tay giặc. Khi nhận ra tôi, mẹ tôi ôm tôi vào lòng
và khóc như mưa. Tôi không đủ can đảm mang tin buồn đến nhà chồng,
nhờ cha tôi sang báo tin tôi và cháu Thùy Dương vừa mới về nhà,
chồng tôi và cháu Cao Nguyên còn đang mất tích. Cả nhà chồng kéo
sang thăm tôi, bồng cháu Thùy Dương về nhà săn sóc. Mẹ chồng tôi
thẫn thờ cả mấy ngày liền khi nhận được tin này. Nằm nhà hơn một
tuần, nhờ mẹ tận tình chăm lo, sức khỏe tôi đã gần bình phục, tôi
xin được trở lại Phú Bổn tìm chồng và cháu Cao Nguyên. Cả nhà tôi và
cha mẹ chồng đều ái ngại, âu lo. Nhưng qua sự nài nỉ của tôi, cuối
cùng cha mẹ chồng cho đứa em trai út của chồng tôi, dùng xe honda
chở tôi ngược đường lên Tỉnh Lộ 7..
Mặc dù đã chứng kiến bao nhiêu máu lửa tang tóc, cũng
như đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi thực sự kinh hãi những gì trước
mắt, khi nhìn thấy ngổn ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy, những bộ
xương người con vương vãi đó đây, bao nhiêu nấm mộ lấp vội bên
đường. Cả một vùng xông mùi tử khí. Chiếc khăn bịt miệng tẩm ướt dầu
Nhị Thiên Đường đã giúp tôi và cậu em vượt qua chặng đường gần 100
cây số. Đến Cheo Reo, hỏi thăm một vài người dân, được biết một số
sĩ quan bị bắt làm tù binh, đang còn giam ở Thuần Mẫn. Chúng tôi đến
đó, trình giấy phép đi tìm chồng của Ủy Ban Quân Quản, mới được cho
vào trại. Sau khi tên VC trực ban cho biết không có tên chồng tôi
trong danh sách tù binh, tôi xin được gặp bất cứ một sĩ quan nào
cùng đơn vị với chồng tôi. Rất may, tôi được gặp anh đại đội phó lúc
chồng tôi còn ở tiểu đoàn. Anh cho biết là có gặp một số binh sĩ
cùng chồng tôi chiến đấu dưới ngọn đồi gần đèo Tu Na. Họ cho biết
chồng tôi bị thương, nhưng cố tìm cách đưa cháu Cao Nguyên đến một
nơi nào đó. Tôi sáng lên niềm hy vọng. Ngay hôm ấy tôi thuê năm
người Thượng, theo tôi lần theo con đường dọc bờ sông mà tôi còn
nhớ, trở lại khu đồi thấp, rồi bung ra xa đi tìm. Liên tục trong một
tuần, chúng tôi chỉ tìm được mấy bộ xương người, một số ngôi mộ vô
danh, nhưng không thấy dấu vết của chồng tôi. Tôi trở về mang theo
niềm tuyệt vọng, không chỉ cho tôi, mà cho cả nhà chồng.
Cha mẹ chồng tôi lập bàn thờ cho chồng tôi và Cao Nguyên, đứa cháu
đích tôn của ông bà. Ngày 19 tháng 3 là ngày giỗ của hai cha con.
Hàng năm, cứ đến ngày này, tôi và Thùy Dương đều trở lại Phú Bổn,
tìm đến chân đồi, dưới gốc cây nằm giữa đỉnh đồi, mà đêm cuối cùng
chồng tôi ôm tôi vào lòng, thắp hương tưởng niệm anh và cháu Cao
Nguyên. Tôi đã dùng dao khắc đậm tên anh và cháu Cao Nguyên vào thân
cây.Và lần nào, khi nước mắt ràn rụa, trong tiếng gió rừng, tôi mơ
hồ như có tiếng khóc từ gốc cây này, rồi văng vẳng bao nhiêu tiếng
khóc từ những thân cây khác, từ những khúc gỗ nằm vương vãi do bom
đạn hôm nào, tạo thành một thứ âm thanh não nùng, xé ruột.
Tôi đã mang dư âm của tiếng khóc ấy đến tận Bắc Âu, nơi mẹ con tôi
định cư sau chuyến vượt biển được một chiếc tàu của vương quốc Na Uy
cứu vớt. Tháng 5 năm 1985, cha mẹ chồng tôi góp vàng cùng một người
bạn ở vùng biển Lương Sơn đóng ghe vượt biển. Tôi, cháu Thùy Dương
và một đứa em trai của tôi được đi cùng với gia đình chồng. Tôi cũng
xin được một chỗ cho chị giúp việc lúc trước (chị đã về quê trên
vùng Diên Khánh, sau ngày cùng tôi thoát chết trở về), nhưng chị
chối từ. Tôi âm thầm gom nhặt tài sản của nhà chồng và của tôi mang
lên biếu chị trước khi rời khỏi quê nhà.
Hai mươi năm sau, khi Thùy Dương vừa làm đám cưới, tôi muốn đưa vợ
chồng cháu về lại Việt Nam trình diện ông bà ngoại, và đến địa điểm
cuối cùng khi chồng tôi và Cao Nguyên còn sống, như là một nghĩa cử
để cháu tưởng nhớ đến cha và anh mình. Chúng tôi đến đây đúng vào
giữa mùa Xuân, một ngày trước ngày giỗ chồng và đứa con trai.
Con đường Tỉnh Lộ 7 ngày xưa bây giờ đã được tráng nhựa và đổi tên
thành Quốc Lộ 25. Chúng tôi thuê bao một chiếc xe tám chỗ ngồi.
Ngoài tôi và vợ chồng cháu Thùy Dương, còn có cậu em trai út của tôi
và vợ chồng chị giúp việc ngày xưa. Chúng tôi đến Cheo Reo, bây giờ
có tên mới là A Yun Pa thuộc tỉnh Gia Lai. Tất cả không còn gì dấu
vết của chiến tranh. Người ta đã cố tình trát phấn tô son lên thành
phố núi này để có dáng dấp của thời kỳ đổi mới. Màu sắc lòe loẹt,
vài ngôi nhà cao tầng quê mùa kệch cỡm, những ngôi nhà sàn “cải
biên” thành những biệt thự của các ông quan lớn, nằm chơ vơ giữa một
vùng nghèo nàn được mang tên “thị xã”. Nhìn dãy núi Hàm Rồng từ xa,
ẩn hiện trong những đám mây mù, lòng tôi chùng xuống. Nơi ấy, đã bao
lần tôi đến thăm chồng, để được hòa mình vào đơn vị với những người
lính trẻ, sẵn sàng chết cho quê hương. Cũng ở nơi ấy tôi đã vinh dự
chứng kiến chồng tôi cùng nhiều anh em đồng đội được ông tướng Vùng
gắn huy chương lên ngực áo khi ban quân nhạc trổi khúc quân hành.
Tất cả bây giờ đã trở thành huyền thoại.
Sau khi thuê phòng trọ, tắm rửa và cơm nước xong,
chúng tôi hỏi đường đến tháp Yang Mun và tháp Drang Lai. Vì nghe dân
ở đây bảo các vị thần Chàm trong hai ngôi tháp này linh thiêng ghê
lắm. Tôi khấn vái và xin xăm. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi lá xăm tôi
bốc trúng lại là bốn câu Kiều của ông Nguyễn Du:
Từ phen chiếc lá lìa rừng
Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây
Rõ ràng hoa rụng hương bay
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi
Tôi bán tín bán nghi, vì nghe nhiều người nói ở Việt Nam, chuyện
cúng bái, mê tín dị đoan, bây giờ là một business. Chẳng lẽ ông thần
Chàm này lại thuộc cả truyện Kiều. Nghĩ như vậy, nhưng thấy bốn câu
thơ lại đúng vào trường hơp của mình, tôi cũng thấy lòng buồn vô
hạn. Trở về phòng trọ, bà chủ nhà cho biết ngày mai có chợ phiên của
người dân tộc, vừa đông vui vừa có thể mua nhiều thứ thổ sản, gia
cầm với giá rất rẻ. Tôi cũng muốn mua mấy con gà, để cúng chồng tôi.
Khi còn sống anh thích ăn gà luộc. Bà còn cho biết thêm dân chúng ở
vùng này đa số là người Thượng thuộc các sắc tộc Djarai, Bahnar,
Hroi và M’dhur. Có một số sống trong các bản rất xa, cách thị xã này
từ 10 tới hơn 20 cây số.
Sau một đêm trằn trọc với những cơn ác mộng, vừa mới chợp mắt tôi đã
nghe tiếng người réo gọi nhau. Ngôn ngữ của các sắc tộc, tôi không
hiểu họ nói gì. Chợ phiên nhóm rất sớm.
Chúng tôi vội vàng ăn sáng rồi kéo nhau ra khu chợ, nằm không xa
trước nhà trọ. Tôi có cảm giác lạ lẫm vì đây là lần đầu tiên tôi đến
một buổi chợ phiên của người sắc tộc. Đã vậy vợ chồng cháu Thùy
Dương cứ theo hỏi tôi điều này điều nọ. Khi đang cố giải thích về
nguồn gốc của người Thượng, chúng tôi đến một quày gà. Những con gà
tre nhỏ xíu được nhốt trong mấy cái lồng đan bằng tre. Tôi ngồi
xuống lựa hai con gà béo nhất, bảo người chủ bắt hộ hai con gà này
ra khỏi lồng. Người chủ là một anh đàn ông Thượng vừa đen vừa ốm,
nói tiếng Việt chưa sõi.. Khi anh xăn tay áo lên và thò tay vào lồng
gà, tôi bỗng giật mình khi phát hiện vết sẹo trên cánh tay trái. Vết
sẹo có hình dáng đầu một con cọp. Tôi nhớ tới Cao Nguyên, đứa con
trai ba tuổi, bị thương trong trận pháo kích của VC vào trại gia
binh ở Biển Hồ. Vết thương trên cánh tay cháu sau khi chữa lành cũng
để lại một vết sẹo có hình ảnh đầu một con cọp. Biểu tượng binh
chủng Biệt Động Quân mà chồng tôi luôn mang trên vai áo. Tôi biến
sắc, nắm chặt cánh tay anh người Thượng và nhìn vào mặt anh ta. Cũng
hai con mắt khá to, cũng cái sóng mũi cao, nhưng khuôn mặt cháy
nắng, mái tóc màu nâu sậm như màu đất đỏ Pleiku. Không có nét đẹp
của Cao Nguyên ngày trước. Anh người Thượng ngượng ngùng, cúi mặt
xuống, khựng lại. Nhưng tôi kịp nhớ ra trên vành tai của Cao Nguyên
có một lỗ tai nhỏ, giống như ba nó, tôi cúi xuống để nhìn kỹ vào tai
anh người Thượng. Tôi bàng hoàng khi nhận ra hai cái lỗ tai nhỏ trên
hai vành tai. Bất giác, tôi ôm chầm lấy anh và nước mắt trào ra.
Nhưng anh bán gà đẩy mạnh tôi ra rồi nói một tràng tiếng Thượng. Vợ
chồng cháu Thùy Dương ngơ ngác nhìn tôi, không biết xảy ra điều gì.
Nghĩ tới chị giúp việc ngày trước có thể xác nhận cùng tôi đôi điều
kỳ lạ, tôi bảo cháu Thùy Dương đi gọi chị từ gian hàng hoa lan phía
trước. Tôi kéo chị ra xa, nói vào tai chị:
- Chị nhìn kỹ anh người Thượng này xem có giống ai không?
Sau một lúc nhìn không chớp mắt, mặt chị biến sắc, rồi không trả lời
tôi mà thì thầm một mình:
- Thằng Nguyên? Chẳng lẽ là thằng cu Nguyên?
Rồi chị nhìn thẳng vào mặt anh ta hỏi:
- Mày có phải là thằng Nguyên, Lê Cao Nguyên không?
Anh người Thượng lắc đầu:
- Tao là thằng Ksor Tlang,
Tôi mua hết những lồng gà hôm ấy và đưa cho anh một nắm tiền. Sau
khi đếm xong anh trả lại cho tôi hơn một nữa, rồi buột miệng:
- Mày bắt cái con gà nhiều tiền quá!
Tôi mất hết bình tĩnh, bảo vợ chồng chị giúp việc đứng giữ anh ta,
rồi chạy vào phòng trọ tìm bà chủ nhà. Tôi kể rất vắn tắt những gì
đã xảy ra. Có lẽ bà ta là người tai mắt ở đây, nhưng là một người
tốt bụng, nhấc điện thoại gọi công an. Chưa đầy ba phút, hai gã công
an chạy tới bằng xe gắn máy, một Kinh một Thượng, cúi đầu chào bà
chủ. Chưa kịp nói gì, bà chủ kéo tay hai gã công an ra chợ. Vừa đi
bà vừa giải thích. Đến nơi, gã công an nói một tràng tiếng Thượng.
Tôi không hiểu gì nhưng thấy anh bán gà gân cổ cãi lại. Cuối cùng
hai người công an kéo anh đi, mặc dù anh cố tình chống lại. Chúng
tôi đi theo phía sau trở về phòng trọ.
Qua trung gian của bà chủ nhà trọ, tôi nhờ gã công an giúp tôi, dịch
lại các điều trao đổi giữa tôi với anh bán gà, và cố gắng bằng mọi
cách tìm ra tông tích của anh ta. Tôi nhét vào tay bà chủ nhà trọ
hai tờ giấy bạc 100 đô la.
- Em có cha mẹ không? Tên ông bà là gì?
- Tôi có cha mẹ . Cha tôi tên Ksor H’lum, mẹ tôi tên H’Nu.
- Có anh em không?
- Không.
- Anh có nhớ ngày sinh không?
- Không
- Tôi có cha mẹ . Cha tôi tên Ksor H’lum, mẹ tôi tên H’Nu.
- Có anh em không?
- Không.
- Anh có nhớ ngày sinh không?
- Không
(Gã
công an nhìn sang tôi, bảo là sẽ tìm khai sinh sau)
- Anh có nhớ lúc còn nhỏ, khi ba, bốn tuổi anh ở đâu không?
- Không! Thì chắc tôi ở với cha mẹ tôi mà.
- Cái sẹo trên cánh tay trái, anh biết vì sao mà có cái sẹo này không?
- Cái sẹo trên cánh tay trái, anh biết vì sao mà có cái sẹo này không?
(Gã
công an bảo anh xăn tay áo lên và chỉ vào vết sẹo)
- Không! Chắc là bị cành cây đâm trúng.
Tôi
thở ra thất vọng. Nhưng vừa chợt nghĩ ra điều gì, tôi lại hỏi:
- Cha mẹ anh đang ở đâu?
- Buôn Ban Ma Dek.
(Gã
công an nhìn tôi, bảo Ban Ma Dek cách đây hơn 10 cây số)
- Anh ở chung với cha mẹ anh?
- Không, ở bên cạnh, với vợ và hai đứa con.
- Đã có vợ con rồi à! Tôi buột miệng.
Tôi đề nghị hai gã công an cùng đi với chúng tôi và
anh bán gà về buôn Ban Ma Dek. Sau khi hỏi nhỏ bà chủ nhà trọ, hai
gã công an gật đầu. Nhưng bảo là chúng tôi phải thuê xe ôm, vì về
buôn Ban Ma Dek chỉ có đường rừng, xe ô tô không chạy được. Bà chủ
nhà trọ gọi hộ chúng tôi bảy cái xe ôm.
Cha mẹ của anh bán gà đã khá già, trước đây chỉ sống
lẻ loi trong núi nên không nói được tiếng Việt. Chúng tôi lại trao
đổi qua sự thông dịch của gã công an người Thượng. Vợ và hai con của
Ksor Tlang thấy có nhiều người cũng chạy sang nhìn.
Ông bà cứ nhất quyết Ksor Tlang là con đẻ của ông bà.
Nhưng thấy tôi khóc lóc, năn nỉ và nhờ gã công an gạn hỏi, cuối cùng
ông cha mới kể lại sự thực:
- Năm ấy, lâu rồi, sau mấy ngày chiến trận ác liệt,
mà vợ chồng tôi phải nằm suốt sau tảng đá to trước nhà để tránh đạn.
Bỗng một buổi chiều có người lính mặc áo rằn ri, bị thương nặng lắm,
nhưng cố lếch vào dưới căn nhà sàn của tôi rồi gục chết, trên lưng
có mang một đứa bé. Nó là thằng Ksor Tlang bây giờ.
- Rồi xác người lính ấy ở đâu? Tôi hỏi.
Ông chỉ tay ra rừng cây phía trước:
- Tôi đã chôn ông ta dưới gốc cây ấy, rồi rào lại, sợ
thú rừng bới lên ăn thịt.
Chúng tôi theo hai người công an dìu ông già đi về
phía khu rừng.
Tôi khóc ngất khi nhìn thấy nấm mồ thấp lè tè nằm
dưới tàng cây, được rào lại bằng những que gỗ nhỏ. Vợ chồng cháu
Thùy Dương cũng quỳ xuống ôm vai tôi mà khóc. Tôi ngước lên dáo dác
tìm Ksor Tlang, thằng Cao Nguyên, đứa con trai duy nhất của vợ chồng
tôi. Nó đang đứng bất động, hai tay nắm chặt hai đứa con đang trần
truồng, đen đúa. Tôi chạy lại ôm hai đứa nhỏ vào lòng, nhưng cả hai
đứa trố mắt nhìn tôi dửng dưng, xa lạ.
Tôi khóc lóc, năn nỉ lắm, ông già mới cùng vợ chồng
và hai đứa con thằng Ksor Tlang về nhà trọ với tôi. Nhờ bà chủ thuê
một cậu học trò thông dịch. Suốt một đêm, tôi, cháu Thùy Dương và vợ
chồng chị vú giúp việc ngày xưa, giải thích, khóc hết nước mắt, xin
vợ chồng Ksor Tlang và hai đứa con theo chúng tôi về Nha Trang ở với
ông bà ngoại, rồi tôi sẽ tìm cách đưa sang Na Uy. Cả hai ông bà già,
nếu muốn, chúng tôi sẽ mua nhà cửa ở Nha Trang và chu cấp tiền bạc
cho ông bà sống gần Ksor Tlang. Nhưng cả Ksor Tlang và ông già một
mực chối từ, bảo là họ không thể nào bỏ bản mà đi. Núi rừng mãi mãi
là nhà của họ. Họ không thể sống xa rừng cũng như loài cá không thể
sống mà không có nước.
Dự trù lên đây ba ngày. Vậy mà chúng tôi đã ở lại đây hơn hai tuần
rồi. Ban đầu tôi dự định xin phép cha mẹ nuôi của Ksor Tlang cho tôi
cải táng phần mộ của chồng tôi, mang về an táng trong nghĩa trang
gia tộc ở Nha Trang, nhưng rồi tôi đã đổi ý. Bởi anh phải nằm ở đây,
bên cạnh đứa con trai và hai đứa cháu nội của anh, mặc dù bây giờ
tất cả đã trở thành người Thượng và chắc không biết gì về anh. Và có
lẽ anh cũng muốn nằm lại với bao nhiêu đồng đội, một thời cùng anh
vào sinh ra tử, mà linh hồn chắc đang còn phảng phất ở quanh đây. Tôi
mướn thợ xây lại ngôi mộ. Trên tấm bia không có hình chân dung của
anh, mà có tấm ảnh anh chụp chung với tôi cùng hai cháu Cao Nguyên
và Thùy Dương trong ngày sinh nhật bốn tuổi của Cao Nguyên, chỉ hơn
một tháng trước ngày anh mất. Tấm ảnh này lúc nào tôi cũng mang
theo.
Tôi cũng không thể bắt Cao Nguyên và vợ con phải rời khỏi núi rừng,
nơi đã cưu mang nó. Có lẽ cái tên Cao Nguyên mà ngày xưa chồng tôi
đề nghị đặt cho nó đã vận vào cuộc đời của nó. Điều làm tôi đau đớn
hơn là tôi chẳng làm được điều gì cho đứa con trai ruột thịt máu mủ
của mình, ngoài việc nhờ bà chủ nhà trọ thuê người dựng cho vợ chồng
nó và ông bà cha mẹ nuôi một ngôi nhà sàn chắc chắn và rộng rãi hơn,
sắm cho vợ chồng nó và hai đứa con một số quần áo mới. Nhưng phải
năn nỉ khóc lóc mãi nó mới chịu nhận, cùng số tiền 200 đô la. Bằng
đúng số tiền mà tôi đã trả công cho hai gã công an!
Ngày cuối cùng, chúng tôi ở lại với vợ chồng Cao
Nguyên trên ngôi nhà sàn mới. Buổi chiều, tôi bảo Cao Nguyên và vợ
con nó, thay quần áo mới, cùng với tôi và vợ chồng Thùy Dương ra
thắp hương trước mộ ba nó. Nó quỳ bên cạnh tôi, cúi đầu nói điều gì
lầm thầm trong miệng và khi ngước lên, đôi mắt đỏ hoe. Suốt đêm hôm
ấy, tôi ngồi khóc một mình.Tôi nghĩ tình mẫu tử thật thiêng liêng,
nhưng có lẽ ông trời đã phạt tôi. Tôi sinh ra Cao Nguyên, nhưng
không bảo vệ được con mình, để mất nó trong núi rừng này từ ngày chỉ
vừa lên bốn tuổi.
Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo
Tỉnh Lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa
mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên
đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa,
mà tất cả đều mang hình dáng của những bộ xương người nối tiếp nhau,
trùng điệp. Tai tôi nghe trăm ngàn tiếng khóc quyện vào trong gió.
Không biết đó là tiếng khóc của người hay tiếng khóc của cây?
http://www.viet-studies.info/RungKhocGiuaMuaXuan.htmPhạm Tín An Ninh
(phỏng theo lời kể của một người vợ lính BĐQ)
14/01/2010
Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân
Tác giả Phạm Tín An Ninh
HạtSươngKhuya diễn đọc
Tác giả Phạm Tín An Ninh
HạtSươngKhuya diễn đọc
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire