Nguyễn Sinh Hùng
Tội đồ Hùng “hói”
I.Hùng”hói” tham nhũng:
Về lai lịch của Nguyễn Sinh Hùng (Hùng “hói”) thì nhà cầm quyền cộng sản cho biết như sau:
“Tiểu sử Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng
- Ngày sinh: 18/1/1946
– Quê quán: Xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An
– Ngày vào Đảng: 26/5/1977 – Ngày chính thức: 26/5/1978
– Trình độ được đào tạo:
+ Giáo dục phổ thông: 10/10
+ Chuyên môn nghiệp vụ: Kinh tế, Tài chính – Kế toán
+ Học hàm, học vị: Tiến sĩ
+ Ngoại ngữ: Bulgari D
– Khen thưởng: Huân chương Lao động hạng 1 (năm 2002); Huân chương Itsara hạng 1 của Lào (năm 2007)
– Ủy viên Trung ương Đảng khóa 8, 9, 10 và 11
– Ủy viên Bộ Chính trị khóa 10, 11
– Đại biểu Quốc hội khóa 10, 11, 12, 13
– Quê quán: Xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An
– Ngày vào Đảng: 26/5/1977 – Ngày chính thức: 26/5/1978
– Trình độ được đào tạo:
+ Giáo dục phổ thông: 10/10
+ Chuyên môn nghiệp vụ: Kinh tế, Tài chính – Kế toán
+ Học hàm, học vị: Tiến sĩ
+ Ngoại ngữ: Bulgari D
– Khen thưởng: Huân chương Lao động hạng 1 (năm 2002); Huân chương Itsara hạng 1 của Lào (năm 2007)
– Ủy viên Trung ương Đảng khóa 8, 9, 10 và 11
– Ủy viên Bộ Chính trị khóa 10, 11
– Đại biểu Quốc hội khóa 10, 11, 12, 13
Tóm tắt quá trình công tác
9/1966-12/1970: Sinh viên ĐH Tài chính – Kế toán Hà Nội
1/1972-12/1977: Cán bộ Ngân hàng Kiến thiết Trung ương, Bộ Tài chính
1/1978-9/1982: Nghiên cứu sinh tại ĐH Kinh tế Các Mác, Bungari
10/1982-10/1986: Phụ trách Phòng Tổng hợp rồi Trưởng Phòng Tổng hợp, Phó Vụ trưởng, sau là Vụ trưởng Đầu tư xây dựng cơ bản, Bộ Tài chính.
10/1986-1/1990: Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy cơ quan, Chánh văn phòng Bộ Tài chính; Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ Khối Kinh tế Trung ương.
2/1990-9/1992: Cục trưởng Kho bạc Nhà nước, Bộ Tài chính.
10/1992-11/1996: Phó Bí thư Ban cán sự Đảng, Thứ trưởng Bộ Tài chính.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 8 của Đảng được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng. Phó Bí thư Đảng ủy cơ quan Bộ Tài chính.
11/1996-6/2006: Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9 của Đảng được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng; đại biểu Quốc hội khóa 10, 11.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 10 của Đảng được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.
Từ 7/2006 đến nay: Ủy viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng thường trực Chính phủ.
Phó bí thư Ban cán sự Đảng Chính phủ; đại biểu Quốc hội khóa 12.
Trưởng Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 11 của Đảng được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị; đại biểu Quốc hội khóa 13.”.
1/1972-12/1977: Cán bộ Ngân hàng Kiến thiết Trung ương, Bộ Tài chính
1/1978-9/1982: Nghiên cứu sinh tại ĐH Kinh tế Các Mác, Bungari
10/1982-10/1986: Phụ trách Phòng Tổng hợp rồi Trưởng Phòng Tổng hợp, Phó Vụ trưởng, sau là Vụ trưởng Đầu tư xây dựng cơ bản, Bộ Tài chính.
10/1986-1/1990: Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy cơ quan, Chánh văn phòng Bộ Tài chính; Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ Khối Kinh tế Trung ương.
2/1990-9/1992: Cục trưởng Kho bạc Nhà nước, Bộ Tài chính.
10/1992-11/1996: Phó Bí thư Ban cán sự Đảng, Thứ trưởng Bộ Tài chính.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 8 của Đảng được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng. Phó Bí thư Đảng ủy cơ quan Bộ Tài chính.
11/1996-6/2006: Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9 của Đảng được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng; đại biểu Quốc hội khóa 10, 11.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 10 của Đảng được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị.
Từ 7/2006 đến nay: Ủy viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng thường trực Chính phủ.
Phó bí thư Ban cán sự Đảng Chính phủ; đại biểu Quốc hội khóa 12.
Trưởng Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 11 của Đảng được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, được Trung ương bầu vào Bộ Chính trị; đại biểu Quốc hội khóa 13.”.
(Links: http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/ong-nguyen-sinh-hung-dac-cu-chu-tich-quoc-hoi-2200903-p4.html ).
Chuyện ngoài
lề của Hùng”hói” cũng có nhiều điều để nói. Việc đầu tiên đó là sau khi
nhờ Hoàng Văn Chánh (Cựu giám độc Điện Lực Đống Đa – Hà Nội) phát hiện
vợ cũ ngoại tình thì chính Chánh mai mối cho Hùng hói gặp được cô vợ hai
gôc Nam Định vốn xuất thân từ một thợ “cắt tóc gội đầu thư giãn’ (Gái
bán dâm trá hình ở Việt Nam). Vợ hai của Nguyễn Sinh Hùng là Lê Thị Mai
Hương, sinh năm 1969 (chỉ hơn cậu con trai đầu Nguyễn Sinh Nhật Tân vài
tuổi).
Ngoài các hệ
thống ngân hàng và các định chế tài chính quan trọng mà Chánh gián tiếp
lũng đoạn nhờ sự chống lưng của Nguyễn Sinh Hùng thì Chánh còn trực
tiếp đứng sau hàng loạt các doanh nghiệp, trong đó có nhiều doanh nghiệp
“ma” để “kinh doanh dự án” là chính như: Công ty Cổ phần Đức Hoàng (địa
chỉ: 28B Phạm Hồng Thái, Trúc Bạch, Ba Đình, Hà Nội), Công ty Cổ phần
Xây dựng và Sản xuất nội thất KB (281Khâm Thiên, Đống Đa, Hà Nội), Công
Ty Cổ Phần Tập Đoàn Zinnia (263 Thụy Khuê – Quận Ba Đình, Hà Nội, Việt
Nam), Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây Dựng Việt Thành (Số 475 Trần Khắc
Chân, P. Thanh Nhàn, Q. Hai Bà Trưng, Hà Nội), Công ty CP Đầu tư Bình
Minh Xanh (H10 Ngõ 132 Trung Kính P. Yên Hòa, Q. Cầu Giấy, Hà Nội), Công
ty Cổ phần Thương mại Minh Đức Lộc (Số 326 Đường Lạc Long Quân Q. Tây
Hồ Thành phố Hà Nội) vv…Chánh ra mặt thay Hùng hói điều hành nhưng thực
chất là làm động tác rửa tiền và cướp đoạt đất đai của người dân cho
Nguyễn Sinh Hùng (Hùng hói).
Cũng liên
quan đến Nguyễn Sinh Hùng đó là việc Hùng hói bầy ra việc “Xây khu thờ
tự cho dòng họ của Hồ Chí Minh”. Theo tin từ báo dân trí của cộng sản
đưa tin:” Ngày 10/6, tại núi Chung (xã Kim Liên, huyện Nam Đàn), Đảng
bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Nghệ An đã long trọng tổ chức lễ khởi
công xây dựng Đền thờ các cụ thân sinh và anh chị em ruột trong gia đình
Chủ tịch Hồ Chí Minh…
Tới dự buổi
lễ khởi công có ông Nguyễn Sinh Hùng – Ủy viên Bộ Chính trị – Chủ tịch
Quốc hội; ông Lê Thanh Hải – Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TP Hồ
Chí Minh; ông Vương Đình Huệ – Ủy viên TƯ Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài chính;
ông Nguyễn Văn Bình – Ủy viên TƯ Đảng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam; Đại diện Bộ, Cục, Vụ, Viện thuộc Bộ VHTT&DL;… cùng lãnh
đạo nhân dân tỉnh Nghệ An….”.
(Links: http://dantri.com.vn/chinh-tri/xay-dung-den-tho-nguoi-than-trong-gia-dinh-chu-tich-ho-chi-minh-605819.htm ).
(Links: http://dantri.com.vn/chinh-tri/xay-dung-den-tho-nguoi-than-trong-gia-dinh-chu-tich-ho-chi-minh-605819.htm ).
Được biết công trình này Hùng hói đã vẽ ra trên diện tích hơn 100 ha với gần 200 tỷ để thờ, tổ cha anh em dòng họ Hồ Chí Minh.
Có một câu
hỏi là tiền đâu ra để làm việc này? Trên các tờ báo lề Đảng không ai
nhắc đến tên một người phụ nữ luôn đi cạnh Hùng hói và đứng trong hàng
xúc cát từ trong mấy mục gỗ đổ ra ngoài mà người ta gọi là lễ động thổ.
Người đó chính là bà Thái Hương, vừa là chủ nhân của Ngân hàng Bắc Á,
vừa là chủ công ty Cổ Phần Thái Hương với dự án nuôi bò tại 29 ha ở Nghệ
An. Việc Bắc Á đầu tư tiền cho Sinh Hùng chính là việc “lại quả” cho
việc Hùng hói giúp ngân hàng này vay tiền từ quỹ ưu đãi của nhà nước.
Trong khi Ngân hàng nhà nước đang được lệnh xiết chặt tín dụng, không có
bất cứ một doanh nghiệp nào có thể vay được tiền và hơn 200.000 doanh
nghiệp đã chết, thì bà Thái Hương đã là một trường hợp khác vì Bà Thái
Hương là người đồng hương với Hùng hói. Thủ Tướng Dũng và Thống đốc Bình
đã ra tay giúp bà Thái Hương để đổi lại ủng hộ của Nguyễn Sinh Hùng và
đó là lý do vì sao tại Quốc hội khoá 3 này Thống đốc Bình đã thoát chất
vấn cho dù rất nhiều bức xúc của cử tri cả nước gởi gấm Đại biểu của
mình cần có câu trả lời khi chỉ một thời gian ngắn lên tại vị ở vị trí
Thống đốc NHNN đã làm cho nền kinh tế bị suy thoái với việc xuất hiện
hàng loạt những việc bất bình thường trong chính sách và trong thực hiện
tái cấu trúc ngân hang mà dư luận cả nước xôn sao về sự chi phối bởi
nhóm lợi ích … Tiếp theo, để trả công, chính bà Thái Hương là người đã
và sẽ bỏ ra 150 tỷ đồng xây dựng đền thờ Tổ cha mẹ Hồ Chí Minh
Tổ của
Nguyễn Sinh Hùng là ai và đã làm được gì cho đất nước này mà phải lấy
tiền tỷ của dân để xây thờ ? Xung quanh chuyện này thì cuốn sách biên
khảo của Giáo sư Trần Quốc Vượng đã giúp hé lộ sự thật:
“…Nhưng đây không phải là chuyện cu. Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cu.
Hồ. Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cu. Hồ, cu. Nguyễn Sinh Huy, mà
cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại,
Folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài
này.
Người
dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ
của ho. Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác: ông đồ nho –
cử nhân – Hồ Sĩ Tạo.
Cử
nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện
Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử
cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn
thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn
Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ
giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính
phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ
Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở
Trung Hoa, có viết một tài liệu lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà vợ
nhà văn lớn Đặng Thái Mai – người một thời làm Viện trưởng viện Văn Học –
là Hồ Thị Toan, cũng thuộc dòng ho. Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoảng
đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có thời
gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã Chung
Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là một
nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có “phường hát ả đào”.
Nhà họ
Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát hay,
múa khéo, đặc biệt là múa Đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai cánh
tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên người
làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bảo: má hồng thì mệnh bạc
(như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc Chinh Phụ Ngâm “hồng nhan đa truân” –
gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Hay như Nguyễn Du than thở dùm
người đẹp tài hoa trong truyện Kiều “chữ tài chữ Mệnh khéo là ghét
nhau”, “rằng hồng nhan tự thuở xưa, cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”).
Vả ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo, lấy Tứ Dân (Sĩ, Nông, Công,
Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca
xướng (“xướng ca vô loài”). Cô Đèn Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà
rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có
bậc văn nhân: ông cử Hồ Sĩ Tạo. “Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén” là lẽ
thường theo tâm lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân – tài tử – giai
nhân. “Trai tài gái sắc” mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng “không chồng mà
chửa”. Mà ông cử Tạo thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt
vạ rất nặng nề, sỉ nhục hạng gái “chửa hoang”, hạng “gian phu dâm phụ”.
Để tránh nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm “thầy
đồ” được hết sức kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy tính…
Lúc
bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao
mà góa vợ (bà vợ trước đã có một con trai – Nguyễn Sinh Thuyết – và
người con trai này cũng đã có vợ). Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn
Sinh Nhậm đến điều đình, “cho không” cô Hy làm vợ kế ông này – như một
người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì, lấy ông già góa vợ – mong ém
nhém việc cô gái đã “to bụng”.
Công
việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới, có cheo cẩn
thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan
sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẽ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão
nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp
đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn “của thừa”, “người ăn ốc (ông
cử Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)”. “Miệng tiếng thế gian xì xầm”,
ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời “nói ra, nói vào”, lời
chì chiết của nàng dâu – vợ anh Thuyết – vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm
điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở
riêng với bà vợ kế.
Chỉ
ít tháng sau, bà vợ kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt
tên là Nguyễn Sinh Sắc, lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó
không phải là con ông, con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng
“tiếng bấc, tiếng chì” hơn trước, vì ngoài việc bố chồng “rước của tội,
của nợ”, “lấy đĩ làm vợ” thì nay còn nỗi lo”: người con trai này – được
ông nhận làm con – lớn lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng
chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra
vào năm Quý Hợi, đời vua Tự Đức thứ 16 (1863).
Vì
trọng tuổi, lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ
ít lâu sau đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi.
Lên bốn, về ở với người anh gọi là “cùng cha khác mẹ” mà thật ra là
“khác cả cha lẫn mẹ”, cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào
cũng chỉ muốn tống cổ cái thằng “em hờ” của chồng này đi cho “rảnh nợ”.
Không
cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về
vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy
vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của cuộc
đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu cưu mang
đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này.
May
có ông tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó,
xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác, lại
có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi
Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu
lòng – Hoàng Thị Loan – mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn nhà
tranh ba gian ở ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ở riêng.
Ta
dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ –
làng Chùa – hơn là với làng Sơn “quê nội”, quê cha “hờ”. Con cái ông, từ
người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh
Khiêm (tục gọi ông cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn (hay
Nguyễn Tất Thành – sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được
sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê Mẹ hay là quê “ngoại”.
Khi cụ tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc
lại về ăn ở chung với bà đồ (tú) Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh bà
ngoại.
Qua
giỗ đầu cụ tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu
cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng “học điền”, ruộng công của làng Chùa
chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để học thêm –
chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi (1895),
ông thi trượt.
Nhờ
sự vận động gửi gấm của ông Hồ Sĩ Tạo – người cha thực của Nguyễn Sinh
Sắc – với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh
Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô
Huế. (Ai cũng biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm Giám sinh
phải là con cháu của những gia đình có thế lực, gọi là “danh gia tử đệ”.
Nếu không có sự “can thiệp” của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan
thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn
có một “cử chỉ đẹp” với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc
– đổi tên là Nguyễn Sinh Huy – đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học
Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt.
Ngày
22 tháng chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh
đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng
chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
ngày nay) trở thành con trai út.
Nguyễn
Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc dùm
rồi trở vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng và
được “vinh quy bái tổ” về làng.
Theo
thể thức triều đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội – dù là quê
nội danh nghĩa – tức là làng Sen – Kim Liên. Hội đồng Hương lý và dân
xã đã dựng nhà tranh năm gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh
đất vườn làng Sen, để đón quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về
làng.
Thế
là buộc lòng ông phải về “quê nội”. Ông cũng đón hai con trai về ở cùng
ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côn – Hồ Chí Minh ngày sau – về ở quê nội
nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì “đích thực”
và gắn bó với tuổi tho ông. Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo.
Nhưng
gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên.
Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô Huế nhận chức quan
(1904) ở bô. Lễ, đem theo hai con trai vào Huế học. Năm 1907, ông bị đổi
đi tri huyện Bình Khê … Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan), khoảng
1910, ông phiêu bạt vô Sàigòn rồi lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về
làng Sen trở lại nữa.
Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng.
Người
ta bảo lúc sau khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua
Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái “bí mật” về cội nguồn
của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái đầu
biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông sang
Quỳnh Đôi nhận họ.
Còn
Nguyễn Sinh Côn – Nguyễn Tất Thành – có biết không? Từ khoảng 11 đến 14
tuổi, ông ở làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là
trước đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gụi với làng Sen! Hay là
sau đó nữa chả nhẽ không khi nào cụ phó bảng hay bà Thanh hay ông Cả
Đạt lại không kể với ông về “bí mật” của gốc tích phụ thân mình?
Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – biết hay không biết chuyện này…
Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa.
Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh.
Sau
cách mạng tháng tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai
thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam – từ trí thức đến người dân quê
– lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí
Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi “về với Các Mác, Lê-nin” năm
1969.
Cuộc
đời thực của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh – còn quá nhiều dấu hỏi chứ
phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết làm sao được khi cụ Hồ – tôi nói
lại một lần nữa theo cảm thức của người Ấn Độ – đã trở thành “huyền
thoại” (myth). Huyền thoại Hồ Chí Minh được hình thành trong vô thức
dân gian (popular inconscience) mà Carl Gustav Jung gọi là vô thức tập
thể. Nhưng nó cũng có phần được hình thành một cách hữu thức, bởi một số
cán bộ gần cận cụ Hồ. Nghĩa là một phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền
thoại hóa (mystified).
Ngay
sau cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả cuốn sách (mỏng thôi!) về
Sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp cách mạng tháng
Tám. Và Sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về sau nữa, ở
miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong, dù là với
hậu ý (arrière-pensée) không ưa gì cụ Hồ.
Nhưng đó lại không phải là chủ đề của bài viết này.
Trở
lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng: Nguyễn
Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của
mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm.
Và
dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương, sau
cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh – tỉnh
Nghệ An – cụ Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen “quê
nội”.
Riêng
tôi nghĩ, thì cũng phải thôi. Vì như ở trên ta đã thấy, cả một thời thơ
ấu của cụ Hồ là gắn bó với quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và bước
đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm, lại là
khi đã bắt đầu khôn lớn?
Tôi
không muốn có bất cứ kết luận “khoa học” gì về bài viết này. Vì nó
không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ là việc ghi lại một số lời
truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay là cái khổ tâm, hay là cái
“mặc cảm” của một số nhà trí thức Nho gia từ đầu thế kỷ XIV (Trương Hán
Siêu, Chu Văn An) đến đầu thế kỷ XX (Nguyễn Sinh Huy) đối với làng
quê.”.
Để nói về những phát ngôn dốt nát của Nguyễn Sinh Hùng thì chúng ta có thể thấy ví như: “Với
những chính sách điều chỉnh thị trường hiện nay, tôi đảm bảo TTCK sẽ
lên giá và có chất lượng hơn. Nếu là nhà đầu tư chứng khoán thì lúc này
tôi sẽ mua cổ phiếu”. Trả lời phỏng vấn Báo Tuổi trẻ ngày 6/3/2008 (Links: http://nld.com.vn/217238P1010C1002/that-chat-nhung-phai-linh-hoat.htm).
Rồi chính Hùng hói nói: “Thị
trường đã giảm đến đáy, nên trong điều hành Chính phủ quyết tâm không
để giảm thêm. Thời điểm này, nếu nhà đầu tư nào bán tháo cổ phiếu thì sẽ
thất bại, ngược lại người nào có quyết định mua vào thông minh sẽ
thắng”. (Links: http://www.qdnd.vn/QDNDSite/vi-vn/75/43/2/2/97/28457/Default.aspx
). Nhưng sau đó thì chỉ số giá chứng khoán đang đứng ở mức khoảng trên
dưới 600 điểm, sau thời điểm Hùng hói phát biểu thì mọi người đều biết
giá chứng khoán đã đi xuống một lèo và đáy thực sự của TTCK là khoảng
220 điểm. Rõ ràng Hùng hói có trình độ quản lý kinh tế dạng “I tờ”.
Ngày 8/6/2010, Hùng hói vừa cười vô tư vừa nói: “Tôi thì vẫn chưa lo”
khi được các phóng viên hỏi về những lo ngại về hiệu quả kinh doanh tại
Vinashin trong kỳ họp Quốc hội. Chỉ 1 tháng sau, tháng 7/2010, thông
tin về vụ bê bối ở Vinashin bung ra (Links: http://dantri.com.vn/c20/s20-401064/co-su-lan-lon-giua-thu-nhap-va-luong-tai-scic.htm). Đây là bằng chứng cho thấy thái độ vô trách nhiệm của Hùng hói trước những đồng tiền thuế của dân đang trôi theo bọt nước.
Một phát biểu dốt nát của Hùng hói chính là “Việt Nam không thể không làm đường sắt cao tốc” khi Trả lời chất vấn trước Quốc hội vào ngày 12/6/2010 (Links: http://vneconomy.vn/20100612021457983p0c9920/pho-thu-tuong-khong-the-khong-lam-duong-sat-cao-toc.htm ).
Một câu nói dốt nát của Nguyễn Sinh Hùng. Ngoài ra Hùng hói còn nổ tưng bừng khi tuyên bố: “GDP
năm nay của Việt Nam tuy chỉ có 106 tỷ USD, nhưng đến 2020 sẽ tăng lên
300 tỷ USD và năm 2030 là 700 tỷ, đến 2040 ước đoán cỡ 1,2 – 1,4 nghìn
tỷ USD. Đến 2050, khi hoàn thành toàn tuyến, con số đó dự kiến sẽ tăng
gấp đôi”. “Thu nhập bình quân đầu người hiện nay là 1.200 USD, nhưng với
tốc độ tăng trưởng kinh tế tương lai thì đến 2020 sẽ là 3.000 USD, và
lần lượt tăng lên mức 6.000, rồi 12.000 và sẽ đạt 20.000 vào năm 2050″. (Links: http://vneconomy.vn/20100612021457983p0c9920/pho-thu-tuong-khong-the-khong-lam-duong-sat-cao-toc.htm ).
Để minh chứng cho hành động tham nhũng và tuyên bố hết sức bao biện cho tham nhũng thì Hùng hói nói:”Sai
thì phải sửa, làm 10 việc tốt cũng có thể có một việc sai. Nếu cách
chức hết thì lấy ai làm việc. Cứ nói theo quy định của pháp luật, nhưng
pháp luật cũng có cái đạo, cứ dẹp đi là bầu không kịp”. (Links: http://vneconomy.vn/20100612021457983p0c9920/pho-thu-tuong-khong-the-khong-lam-duong-sat-cao-toc.htm ). Rồi Hùng hói khẳng định thêm: “Không tham nhũng lấy đâu tiền mà chạy chức vụ này chức vụ kia…”. (Links: http://www.tienphong.vn/xa-hoi/646715/Khong-tham-nhung-lay-dau-tien-ma-chay-chuc-tpov.html ).
Để tìm hiểu thêm về tham nhũng phe nhóm của Hùng hói trong vụ ngân hàng Bảo Việt mời bạn đọc tìm hiểu tại 3 links sau:
http://ttxva.org/bao-viet-phan-9/
http://www.youtube.com/watch?v=9m78UoVJpvU
http://www.youtube.com/watch?v=a2-s1LBOrHc
http://www.youtube.com/watch?v=9m78UoVJpvU
http://www.youtube.com/watch?v=a2-s1LBOrHc
Ngoài ra,
việc Trần Sĩ Thanh, sinh năm 1972, Phó bí thư tỉnh ủy Darlac là cháu của
Nguyễn Sinh Hùng cũng là một nguồn kiếm tiền và rửa tiền thông qua
những dự án trồng rừng và chế biến lâm sản cho vợ chồng Hùng hói.
II. Tích cực bán nước:
Hùng hói là
một tên tham gia tích cực vào hệ thống bán nước của cộng sản Việt Nam.
Để minh chứng cho những hành động đó xin cụ thể một số dẫn chứng sau
đây.
Thứ nhất, Hùng hói đã ton hót với Lý Khắc Cường – thủ tướng Tàu trong chuyến công cán của Cường ngay sau lễ tang ông Giáp như sau:
“Tiếp
Thủ tướng Lý Khắc Cường tại trụ sở Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn
Sinh Hùng khẳng định Quốc hội Việt Nam sẽ làm hết sức mình để cùng Đảng,
Chính phủ Việt Nam không ngừng củng cố và phát triển quan hệ đối tác
hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc.
Chủ
tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng mong muốn trong thời gian tới, Quốc hội
hai nước sẽ tiếp tục đẩy mạnh giao lưu, trao đổi đoàn, trao đổi thông
tin và kinh nghiệm một cách thiết thực và hiệu quả cũng như tăng cường
sự phối hợp trên các diễn đàn Nghị viện khu vực và quốc tế, góp phần
thúc đẩy sự hợp tác của Chính phủ và các bộ, ngành hai nước ngày càng
hiệu quả”.
Xem thêm clips tại: http://www.btv.org.vn/live/clip18770/Chu-tich-Quoc-hoi-Nguyen-Sinh-Hung-tiep-Thu-tuong-Quoc-vu-vien-Trung-Quoc-Ly-Khac-Cuong.html
Báo chí lề đảng đưa tin về việc ký kết những văn kiện bán nước của nhóm Hùng hói, Tư Sang, Dũng X như sau:
“Trong
thời gian chuyến thăm, Thủ tướng Lý Khắc Cường đã hội đàm với Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng; hội kiến với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng. Trong không
khí chân thành, hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau, hai bên đã đi sâu trao
đổi ý kiến và đạt nhận thức chung rộng rãi về việc làm sâu sắc thêm hợp
tác chiến lược toàn diện Việt-Trung trong tình hình mới, cũng như tình
hình quốc tế, khu vực hiện nay và các vấn đề cùng quan tâm.
2.
Hai bên đã nhìn lại và đánh giá cao sự phát triển quan hệ Việt
Nam-Trung Quốc, khẳng định sẽ tuân theo những nhận thức chung quan trọng
mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, phát triển quan hệ đối tác
hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc theo phương châm “láng
giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”
và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.
Hai
bên nhất trí cho rằng trong tình hình kinh tế, chính trị quốc tế diễn
biến phức tạp hiện nay, việc hai bên tăng cường trao đổi chiến lược, làm
sâu sắc thêm hợp tác thực chất, xử lý thỏa đáng các vấn đề còn tồn tại,
tăng cường điều phối và phối hợp trong các vấn đề quốc tế và khu vực,
thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển lành mạnh, ổn định lâu dài phù hợp
lợi ích căn bản của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, có lợi cho
hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực cũng như thế giới.
3.
Hai bên đánh giá cao vai trò quan trọng không thể thay thế của tiếp xúc
cấp cao giữa hai nước, nhất trí tiếp tục duy trì tiếp xúc và thăm viếng
cấp cao, xuất phát từ tầm cao chiến lược nắm vững phương hướng phát
triển quan hệ hai nước trong thời kỳ mới. Đồng thời, thúc đẩy trao đổi
cấp cao qua nhiều hình thức như gặp gỡ bên lề các diễn đàn đa phương, sử
dụng tốt đường dây nóng giữa Lãnh đạo cấp cao để đi sâu trao đổi các
vấn đề trọng đại trong quan hệ song phương cũng như các vấn đề cùng quan
tâm.
4.
Hai bên nhất trí tiếp tục sử dụng tốt cơ chế của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác
song phương Việt Nam-Trung Quốc, thúc đẩy tổng thể hợp tác cùng có lợi
trên các lĩnh vực; thực hiện tốt “Chương trình hành động triển khai Quan
hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc”; sử dụng
tốt các cơ chế giao lưu, hợp tác giữa các ngành Ngoại giao, Quốc phòng,
Kinh tế Thương mại, Công an, An ninh, Báo chí hai nước và giữa Ban Đối
ngoại Trung ương, Ban Tuyên giáo của hai Đảng; tổ chức tốt Phiên họp Ủy
ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc, Hội nghị hợp tác
phòng chống tội phạm, Phiên họp Ủy ban hợp tác kinh tế thương mại, Hội
thảo lý luận giữa hai Đảng; làm tốt các công tác như Tham vấn Ngoại giao
thường niên, Tham vấn An ninh-Quốc phòng, đào tạo mở rộng cho cán bộ
Đảng và Nhà nước; sử dụng hiệu quả đường dây điện thoại trực tiếp giữa
Bộ Quốc phòng, tăng cường định hướng đúng đắn báo chí và dư luận…, góp
phần quan trọng cho việc tăng cường sự tin cậy giữa hai bên, duy trì
phát triển ổn định quan hệ hai nước.
5.
Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc là láng giềng và đối tác quan
trọng của nhau, đều đang ở trong thời kỳ then chốt của công cuộc phát
triển kinh tế-xã hội, xuất phát từ nhu cầu và lợi ích chung của hai
nước, trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, hai bên nhất trí làm sâu sắc
thêm hợp tác chiến lược toàn diện với trọng tâm là các lĩnh vực dưới
đây:
a. Về hợp tác trên bộ
(i)
Hai bên nhất trí nhanh chóng thực hiện “Quy hoạch phát triển 5 năm hợp
tác kinh tế thương mại Việt-Trung giai đoạn 2012-2016” và Danh mục các
dự án hợp tác trọng điểm; thành lập Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ
tầng giữa hai nước để quy hoạch và chỉ đạo thực hiện các dự án cụ thể;
sớm đạt nhất trí về phương án thực hiện và huy động vốn đối với dự án
đường bộ cao tốc Lạng Sơn-Hà Nội nhằm sớm khởi công xây dựng. Hai bên sẽ
tích cực thúc đẩy dự án đường bộ cao tốc Móng Cái-Hạ Long, phía Trung
Quốc ủng hộ các doanh nghiệp có thực lực của Trung Quốc tham gia dự án
này theo nguyên tắc thị trường, đồng thời sẵn sàng hỗ trợ về huy động
vốn trong khả năng. Các bộ, ngành hữu quan hai nước đẩy nhanh công tác,
sớm khởi động nghiên cứu khả thi dự án đường sắt Lào Cai-Hà Nội-Hải
Phòng. Hai bên nhất trí thực hiện tốt “Bản ghi nhớ về việc xây dựng các
khu hợp tác kinh tế qua biên giới”, tích cực nghiên cứu đàm phán ký kết
“Hiệp định thương mại biên giới Việt-Trung” (sửa đổi) nhằm phát huy vai
trò tích cực thúc đẩy hợp tác và phồn vinh ở khu vực biên giới hai nước.
(ii)
Hai bên đồng ý tăng cường điều phối chính sách kinh tế thương mại, thực
hiện tốt “Bản ghi nhớ hợp tác song phương trong lĩnh vực thương mại
hàng nông sản” và “Hiệp định về việc mở Cơ quan xúc tiến Thương mại nước
này tại nước kia,” để thúc đẩy cân bằng thương mại song phương trên cơ
sở bảo đảm thương mại tăng trưởng ổn định, phấn đấu hoàn thành trước
thời hạn mục tiêu đến năm 2015 kim ngạch thương mại hai chiều đạt 60 tỷ
USD. Phía Trung Quốc khuyến khích doanh nghiệp Trung Quốc mở rộng nhập
khẩu hàng hóa có tính cạnh tranh của Việt Nam, ủng hộ doanh nghiệp Trung
Quốc vào Việt Nam đầu tư kinh doanh, đồng thời sẵn sàng tạo điều kiện
thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp Việt Nam sang Trung Quốc mở rộng thị
trường. Phía Việt Nam sẽ tạo thuận lợi, hỗ trợ sớm hoàn thành Khu công
nghiệp Long Giang và Khu công nghiệp An Dương. Hai bên sẽ đẩy nhanh thi
công, thúc đẩy sớm hoàn thành dự án Cung Hữu nghị Việt-Trung.
(iii)
Hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm giao lưu hợp tác trong lĩnh vực nông
nghiệp, khoa học công nghệ, giáo dục, văn hóa, thể thao, du lịch, y tế…
(iv)
Hai bên nhất trí tiếp tục phát huy vai trò của Ủy ban liên hợp biên
giới trên đất liền giữa hai nước, thực hiện nghiêm túc Kế hoạch công tác
hàng năm; tiến hành Hội nghị lần thứ nhất Ủy ban hợp tác quản lý cửa
khẩu giữa hai nước, thúc đẩy công tác mở cửa, nâng cấp một số cặp cửa
khẩu biên giới trên bộ, sớm chính thức mở cặp cửa khẩu quốc gia Hoành
Mô-Động Trung; thúc đẩy đàm phán về “Hiệp định hợp tác bảo vệ và khai
thác nguồn tài nguyên du lịch khu vực thác Bản Giốc” sớm đạt được tiến
triển thực chất, sớm khởi động vòng đàm phán mới và đạt nhất trí về
“Hiệp định tàu thuyền tự do đi lại tại khu vực cửa sông Bắc Luân”, sớm
hoàn thành xây dựng các cầu qua biên giới như cầu đường bộ Bắc Luân 2,
cầu đường bộ 2 Tà Lùng-Thủy Khẩu, tạo nền tảng cho sự ổn định và phát
triển của khu vực biên giới hai nước.
Hai
bên nhất trí tăng cường hơn nữa hợp tác giữa các địa phương, nhất là
giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước; phát huy vai trò của cơ
chế hợp tác liên quan giữa địa phương hai nước.
b. Về hợp tác tiền tệ
Hai
bên nhất trí tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tài chính, tích cực tạo
điều kiện và khuyến khích các tổ chức tài chính hai bên hỗ trợ dịch vụ
tài chính cho các dự án hợp tác song phương về thương mại và đầu tư.
Trên cơ sở Hiệp định thanh toán bằng đồng bản tệ song phương trong
thương mại biên giới ký giữa ngân hàng trung ương hai nước năm 2003,
tiếp tục nghiên cứu việc mở rộng phạm vi thanh toán bằng đồng bản tệ,
thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu tư hai bên. Hai bên quyết định thành
lập Nhóm công tác về hợp tác tiền tệ giữa hai nước, để nâng cao khả
năng phòng ngừa rủi ro tài chính tiền tệ của hai bên, duy trì ổn định và
phát triển kinh tế hai nước và khu vực. Tăng cường điều phối và phối
hợp đa phương, cùng nhau thúc đẩy hợp tác tài chính tiền tệ khu vực Đông
Á.
c. Về hợp tác trên biển
Hai
bên nhất trí tuân thủ nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai Đảng,
hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản
chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc,” sử dụng tốt cơ
chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc,
kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp
cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên
cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ
trương của mỗi bên bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp
tác cùng phát triển. Theo tinh thần đó, hai bên đồng ý thành lập Nhóm
công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển trong khuôn khổ
Đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc.
Hai
bên nhất trí tăng cường chỉ đạo đối với các cơ chế đàm phán và tham vấn
hiện có, gia tăng cường độ làm việc của Nhóm công tác vùng biển ngoài
cửa Vịnh Bắc Bộ và Nhóm công tác cấp chuyên viên về hợp tác trong các
lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển. Trên nguyên tắc dễ trước khó sau, tuần
tự tiệm tiến, vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa
Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại
vùng biển này và trong năm nay khởi động khảo sát chung ở khu vực ngoài
cửa Vịnh Bắc Bộ để thực hiện nhiệm vụ đàm phán của Nhóm công tác về vùng
biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Nhanh chóng thực hiện các Dự án hợp tác
trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển như Hợp tác nghiên cứu quản lý
môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ, Nghiên cứu so sánh trầm
tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông
Trường Giang…, tiếp tục thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực bảo vệ môi
trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm cứu nạn trên biển, phòng
chống thiên tai và kết nối giao thông trên biển.
Hai
bên nhất trí kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động
làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, sử dụng tốt đường dây nóng quản lý,
kiểm soát tranh chấp trên biển giữa Bộ Ngoại giao hai nước, đường dây
nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển
giữa Bộ Nông nghiệp hai nước, xử lý kịp thời, thỏa đáng các vấn đề nảy
sinh, đồng thời tiếp tục tích cực trao đổi và tìm kiếm các biện pháp có
hiệu quả để kiểm soát tranh chấp, duy trì đại cục quan hệ Việt-Trung và
hòa bình, ổn định trên Biển Đông.
6.
Hai bên nhất trí tổ chức tốt các hoạt động như Liên hoan Thanh niên
Việt-Trung lần thứ hai, Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt-Trung, Liên hoan
Nhân dân Việt-Trung…, nhằm bồi dưỡng ngày càng nhiều thế hệ tiếp nối sự
nghiệp hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc. Hai bên nhất trí thành lập Viện
Khổng Tử tại Việt Nam và đẩy nhanh việc thành lập Trung tâm văn hóa của
nước này ở nước kia, thiết thực tăng cường tuyên truyền về quan hệ hữu
nghị Việt-Trung, làm sâu sắc sự hiểu biết và hữu nghị giữa người dân hai
nước.
7.
Phía Việt Nam khẳng định kiên trì thực hiện chính sách một nước Trung
Quốc, ủng hộ quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan phát triển hòa bình và sự
nghiệp lớn thống nhất Trung Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ
“Đài Loan độc lập” dưới mọi hình thức. Việt Nam không phát triển bất cứ
quan hệ chính thức nào với Đài Loan. Phía Trung Quốc hoan nghênh lập
trường trên của Việt Nam.
8.
Hai bên nhất trí tăng cường điều phối và phối hợp tại các diễn đàn đa
phương như Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Diễn đàn hợp tác
kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, diễn đàn hợp tác Á-Âu, Diễn đàn khu vực
ASEAN, Hội nghị Cấp cao ASEAN-Trung Quốc, Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 với
Trung-Nhật-Hàn, Hội nghị Cấp cao Đông Á…, cùng nhau nỗ lực duy trì hòa
bình, ổn định và thịnh vượng của thế giới.
Hai
bên đánh giá cao những thành tựu to lớn đạt được trong phát triển quan
hệ ASEAN-Trung Quốc, nhất trí lấy dịp kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ
đối tác chiến lược ASEAN-Trung Quốc làm cơ hội tăng cường hơn nữa tin
cậy chiến lược. Phía Việt Nam hoan nghênh đề xuất của Trung Quốc về việc
ký kết “Điều ước hợp tác láng giềng hữu nghị giữa các nước ASEAN và
Trung Quốc”, nâng cấp Khu mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc, thành lập
Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á. Việc ASEAN và Trung Quốc triển
khai hợp tác rộng rãi có vai trò hết sức quan trọng đối với thúc đẩy hòa
bình, ổn định, tôn trọng và tin cậy lẫn nhau tại khu vực Đông Nam Á.
Hai
bên nhất trí thực hiện đầy đủ, hiệu quả “Tuyên bố về cách ứng xử của
các bên ở Biển Đông” (DOC), tăng cường tin cậy, thúc đẩy hợp tác, cùng
nhau duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, theo tinh thần và nguyên tắc
của “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), trên cơ sở
đồng thuận, nỗ lực hướng tới thông qua “Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông”
(COC).
9.
Trong thời gian chuyến thăm, hai bên đã ký “Hiệp định về việc mở Cơ
quan xúc tiến Thương mại nước này tại nước kia”, “Bản ghi nhớ về xây
dựng khu hợp tác kinh tế qua biên giới”, “Bản ghi nhớ về việc thành lập
Nhóm Công tác hỗn hợp hỗ trợ các dự án do doanh nghiệp Trung Quốc thực
hiện tại Việt Nam”, “Hiệp định về việc xây dựng cầu đường bộ 2 Tà
Lùng-Thủy Khẩu” và Nghị định thư kèm theo, “Dự án hợp tác nghiên cứu
quản lý môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ”, “Dự án nghiên cứu
so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu
thổ sông Trường Giang”, “Thỏa thuận về việc thành lập Viện Khổng Tử tại
Trường Đại học Hà Nội” và một số văn kiện hợp tác kinh tế.
10.
Hai bên bày tỏ hài lòng về kết quả chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng
Trung Quốc Lý Khắc Cường, nhất trí cho rằng chuyến thăm lần này có ý
nghĩa quan trọng đối với việc thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển và
hợp tác thiết thực trên các lĩnh vực./.”.
Thứ hai, Năm 2009 Hùng hói đi thăm Liễu Châu cũng đã được báo chí cộng sản đưa tin như sau:
“Sáng
22/10, tiếp tục chuyến thăm Quảng Tây – Trung Quốc, Phó Thủ tướng
Thường trực Nguyễn Sinh Hùng cùng Đoàn cấp cao Chính phủ Việt Nam đã tới
dự Lễ khai mạc Triển lãm Doanh nghiệp vừa và nhỏ TP Ngọc Lâm lần thứ 6
và tới thăm Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại TP. Liễu Châu… Cảm ơn
sự đón tiếp chân tình và trọng thị của lãnh đạo và nhân dân TP. Liễu
Châu, Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cho rằng, Trung Quốc và
Việt Nam nói chung, TP. Liễu Châu với Việt Nam nói riêng cần tiếp tục
vun đắp tình đoàn kết, hợp tác, hữu nghị gắn bó lâu dài. Với tiềm lực
của mình, Liễu Châu sẽ tiếp tục vươn lên mạnh mẽ, con đường mở
rộng hợp tác đầu tư thương mại của Liễu Châu với các nước ASEAN trong đó
có Việt Nam chắc chắn phát triển hơn nữa.”.
Qua những phát ngôn của Hùng hói cho
thấy, đây là một tên nố tài bán nước có thứ hạng cao trong đội ngũ cộng
sản Việt Nam chuyên nghề bán nước, hại dân. Có thể xem thêm clips tại
đây: http://www.youtube.com/watch?v=lGMhOKbyabg
Thứ ba, Cũng
giống như Tòng Thị Phóng mô tả Trung cộng là đồng chí và anh em của
Việt Nam, Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng ngỏ lời tri ân sự hỗ trợ
của Trung cộng đối với Việt Nam và nói rằng đảng, nhà nước, và nhân dân
Việt Nam luôn xem mối quan hệ với Trung cộng là một ưu tiên trong các
mối bang giao đối ngoại của Việt Nam. Hay Nguyễn Thiện Nhân :” Các
hoạt động tri ân Trung Quốc mà hội này sẽ tổ chức là mời các chuyên gia,
các cựu chiến binh Trung Quốc sang thăm Việt Nam… Một chương trình hành
động quan trọng khác của Hội hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc trong thời
gian tới là ‘nghiên cứu xây dựng các hình thức tuyên truyền về tình hữu
nghị Việt-Trung”. (Links: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/07/120711_vietchina_friendship_society.shtml
) thì Hùng hói cũng không kém phần “long trọng” trong việc bán nước hại
dân. Khi phát biểu tại Ban Tuyên Giáo Trung Ương ngày 14/3/2013 thì
Hùng hói đã tuyên bố:” Tình cảm mà đảng mà nhân dân Trung Quốc giành
cho đảng cộng sản Việt Nam cần phải được báo chí cách mạng nâng tầm lên
mức cao hơn. Chúng phải thể hiện sự biết ơn những ân tình của bạn mà
chủ tich Hồ Chí Minh đã dày công xây dựng…”
Tất cả những
bằng chứng nêu trên cho thấy Hùng hói là một tên bán nước hại dân và
cam tâm làm nô tài cho giặc thật sự. Đó là những con quỷ đó mà chúng ta
cần phải đồng lòng để tiêu diệt. Cũng vì bán nước hại dân mà Hùng hói và
đồng bọn có những khối tài sản khổng lồ:
III.Kết luận:
Tội ác của
Hùng hói là một trong những tên tham nhũng và bán nước giống như biết
bao tên chóp bu cộng sản khác. Chúng ta cần phải lên án mạnh mẽ để người
dân biết hết những sự thật này, từ đó cùng đứng lên để lật đổ chế độ
cộng sản. Không còn thời gian cho chúng ta tiếp tục chần trừ và làm ngơ
trước những hiểm họa đang đến rất gần với dân tộc Việt Nam do bè lũ cộng
sản bắt đầu từ Hồ Chí Minh cho đến Hùng, Dũng, Sang Trọng gây ra. Hãy
tiến lên và chúng ta sẽ có được chiến thắng. Dân tộc đang mong chờ chúng
ta cùng đứng lên vì một mùa xuân Việt Nam.
Đặng Chí Hùng
18/11/2013
18/11/2013
https://baovecovang2012.wordpress.com/
Key :Thông tin vinaphone khuyen mai - nap tien dien thoai - nap the zing - khuyen mai vinaphone khách hàng hãy tin tưởng chúng tôi.Tôi xin chân thành cảm ơn
RépondreSupprimer