Khi bài hát trở về
Bài viết Trần Trung Đạo
Thanh Phương trình bày
Trần Trung Đạo (Danlambao) - Trong
thời gian qua, nhiều hình ảnh của anh Điếu Cày có kèm theo hàng chữ
“Khi bài hát trở về”. Nhiều bạn, và có lẽ cả anh Điếu Cày, không biết rõ
nguồn gốc từ đâu. Đó là bìa tác phẩm Khi Bài Hát Trở Về
của Trần Trung Đạo do các em thanh niên, sinh viên trong nước in 5 năm
trước. Dĩ nhiên in không kiểm duyệt, chuyền tay nhau đọc và phát hành
trong vòng kín đáo. Các em chọn bài Khi Bài Hát Trở Về, một trong những
tiểu luận có trong tác phẩm để làm tựa cho cuốn sách và đặt tên cho nhà xuất bản là Điếu Cày.
Bài viết khởi nguồn từ cảm xúc lần đầu nghe nhạc phẩm Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang được tuổi trẻ Việt Nam trong nước hát lên trong ngày biểu tình chống chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng năm 2008. Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã đọc bài viết và nhạc sĩ Việt Dzũng cũng đã đọc một phần của bài viết để giới thiệu nhạc phẩm Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ tưởng nhớ nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang. Cả hai anh đều đã qua đời. Những người yêu nước, có kẻ vừa đến và người đã ra đi nhưng bài hát đầy ngạo nghễ của một dân tộc đã vươn lên từ bao nhiêu khốn khó sẽ còn được hát. Xin chia sẻ bài viết Khi Bài Hát Trở Về
*
Bài viết khởi nguồn từ cảm xúc lần đầu nghe nhạc phẩm Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang được tuổi trẻ Việt Nam trong nước hát lên trong ngày biểu tình chống chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng năm 2008. Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã đọc bài viết và nhạc sĩ Việt Dzũng cũng đã đọc một phần của bài viết để giới thiệu nhạc phẩm Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ tưởng nhớ nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang. Cả hai anh đều đã qua đời. Những người yêu nước, có kẻ vừa đến và người đã ra đi nhưng bài hát đầy ngạo nghễ của một dân tộc đã vươn lên từ bao nhiêu khốn khó sẽ còn được hát. Xin chia sẻ bài viết Khi Bài Hát Trở Về
*
Nếu phải xếp hạng những bài hát được sinh ra và lớn lên cùng với thăng
trầm của đất nước, với thao thức của thanh niên, sinh viên, học sinh,
với tâm trạng của những người lính trẻ trong cuộc chiến tranh tự vệ đầy
gian khổ ở miền Nam trước đây, tôi tin, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang sẽ là một trong những bài ca được xếp hàng đầu.
Không giống như một số hành khúc quen thuộc trong giới trẻ trước 1975 như Dậy Mà Đi của Nguyễn Xuân Tân, Tổ Quốc Ơi Ta Đã Nghe
của La Hữu Vang thiết tha, mạnh mẽ nhưng chỉ giới hạn trong các phong
trào sinh viên tranh đấu và ngay khi ra đời đã bị đảng sử dụng cho mục
đích tuyên truyền trong các trường đại học, các đô thị miền Nam, hay Việt Nam Việt Nam của Phạm Duy chan chứa tình dân tộc, kêu gọi người người thương mến nhau nhưng thiếu đi cái hùng khí, sôi nổi của tuổi trẻ, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của
Nguyễn Đức Quang không dừng lại ở nỗi đau của đất nước mà còn nói lên
cả những bi thương, công phẫn, thách đố của tuổi trẻ Việt Nam trước
những tàn phá của chiến tranh và tham vọng của con người.
Trong vườn hoa âm nhạc Việt Nam, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ nổi
bật lên như một biểu tượng cho khát vọng của một dân tộc đã vượt qua
bao nhiêu gian nan khốn khó để tồn tại và vươn lên cùng các dân tộc khác
trên mặt đất nầy.
Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn
Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
Lê sau bàn chân gông xiềng của thời xa xăm
Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loang xoang.
Lời nhạc của Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễtương đối khó nhớ nhưng nhờ cách sử dụng ngôn ngữ trẻ trung, mạnh mẽ, tượng thanh, tượng hình như “tiếng cười ngạo nghễ”, “xích kêu loang xoang”, “trên bàn chông hát cười đùa vang vang” hay “Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi” đã làm cho Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ trở thành độc đáo, không giống như những bài ca yêu nước khác với những ý tưởng quen thuộc và lời ca phần lớn là lập lại nhau.
Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đẹp tự nhiên như một đóa lan rừng,
không mang màu sắc chính trị, không nhằm cổ võ hay biện minh cho một chủ
nghĩa nào, không cơ quan nhà nước nào chỉ đạo thanh niên sinh viên học
sinh phải hát và bài hát cũng chẳng nhằm phục vụ lợi ích riêng của chính
quyền, tôn giáo hay đảng phái chính trị nào. Trước 1975, từ thành phố
đến thôn quê, từ các trường trung học tỉnh lẻ đến đại học lớn như Huế,
Sài Gòn, từ các phong trào Hướng đạo, Du ca đến các tổ chức trẻ của các
tôn giáo như Thanh niên Công giáo, Gia đình Phật tử, từ các quân trường
Đà Lạt, Thủ Đức, Quang Trung, Nha Trang đến các tổ chức, đoàn thể xã hội
từ thiện đều hát Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ.
Sau 1975, bài hát theo chân hàng trăm ngàn sĩ quan và viên chức miền Nam đi vào tù. Nhiều hồi ký, bút ký kể lại Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đã
được hát lên, kín đáo hoặc cả công khai, ở nhiều trại tù khắp ba miền
đất nước. Trong tận cùng của đói khát, khổ nhục, đớn đau, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đã hóa thành những hạt cơm trắng, hạt nếp thơm nuôi sống tinh thần những người lính miền Nam sa cơ thất thế.
Những năm sau đó, bài hát, như tác giả của nó và hàng triệu người Việt khác lên đường ra biển tìm tự do. Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễlại
được hát lên giữa Thái Bình Dương giông bão, hát lên ở các trại tỵ nạn
Palawan, Paula Bidong, Panat Nikhom trong nỗi nhớ nhà, hát lên ở Sungai
Besi, White Head trong những ngày chống cưỡng bách hồi hương, hát lên ở
San Jose, Santa Ana, Boston, Paris, Oslo, Sydney trong những cuộc biểu
tình cho tự do dân chủ Việt Nam, hát lên ở các trại hè, trại họp bạn
Hướng đạo, các tổng hội sinh viên Việt Nam tại hải ngoại.
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, trong buổi phỏng vấn dành cho chương trình Tiếng Nói Trẻ đã kể lại câu chuyện ra đời của Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ trong âm nhạc Việt Nam: “…Thế bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ cũng vậy,
nó không phải là một bài ca tôi nghĩ là quá lớn, nhưng lúc bấy giờ khi
tôi kết thúc tập Trường Ca vào năm 1965, cuối 1965 hay đầu 1966 gì đó,
khoảng thời gian đó, 10 bài trường ca, những bài như Nỗi Buồn Nhược
Tiểu, Tiếng Rống Đàn Bò, Lìa Nhau, Thảm Kịch Khó Nói v.v. những bài nói
về đất nước của mình rất là khổ sở, tôi nghĩ nên kết nó bằng một bài hát
có tiếng gọi hùng tráng và tha thiết hơn. Thành ra tôi viết bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ một
cách rất là dễ dàng. Tất cả những ý đó tôi đem vào hết trong bài hát đó
để nó vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu
mà trở thành một nước to lớn, và lòng người cực kỳ dũng mãnh. Viết xong
bài đó tôi nghĩ chỉ kết thúc tập Trường Ca mà thôi, không ngờ về sau
càng ngày đi các nơi càng thấy nhiều người ưa thích bài đó, có lẽ đáp
được ước vọng của nhiều người, tôi nghĩ tiếng gọi đáp ứng đúng được
tiếng của nhiều người, không riêng gì giới trẻ đâu, cả người lớn tuổi ở
các hội đoàn về sau này, rồi đi vào trong quân đội, đi rất nhiều nơi.
Thành ra, tôi cho đó là một bài hát tự nó trưởng thành nhưng khi viết
tôi chỉ đúc kết cho tập Trường Ca lúc đó mà thôi.”
Thật đơn giản và tự nhiên như thế. Không một ông Bộ trưởng Bộ Chiêu hồi
nào đặt hàng hay một ông Tổng ủy trưởng Dân vận nào chỉ thị anh phải
viết. Anh viết không phải để thi đua sáng tác hay mong mang về giải
thưởng, huân chương. Trong tâm hồn của một nghệ sĩ chân chính, tình yêu
nước bao giờ cũng là sự thôi thúc tự nguyện. Anh viết Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ để
kết thúc tập trường ca của riêng anh nhưng cũng nối tiếp tập trường ca
lớn hơn của đất nước. Sau ba mươi năm, nhiều nhạc sĩ, ca sĩ đã trở về
qua nhiều ngả, trong nhiều tư cách khác nhau, một số tình ca sáng tác
trước 1975 đã được nghe lại trong nước, nhưng đây là lần đầu tiên một
bài hát đã về lại quê hương qua ngả của trái tim, trở về trong vòng tay
nồng ấm của tuổi trẻ Việt Nam.
Bất ngờ và cảm động, một buổi sáng tuần trước, khi đi dạo một vòng qua
các blog Việt ngữ, tôi bắt gặp không chỉ những mẩu tin nóng viết vội
vàng trên đường phố, những đoạn phim biểu tình vừa mới đưa lên YouTube,
những tấm hình ghi lại cảnh xô xát giữa đồng bào, sinh viên với công an,
nhưng còn được nghe lại bài hát quen thuộc Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ.
Tôi cảm nhận qua lần gặp gỡ đó một niềm vui chung khi có một bản nhạc
mà các em sinh viên Việt Nam ở California, Washington DC, Oslo, Paris,
Hà Nội, Sài Gòn cùng hăng say hát trong những cuộc biểu tình chống Trung
Cộng bành trướng bá quyền mà không cảm thấy ngần ngại, nghi ngờ, xa
cách.
Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người
Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi
Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi
Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian.
Trong số một trăm em đang hát trong nước hôm nay có thể hơn chín mươi em
chưa hề nghe đến tên Nguyễn Đức Quang lần nào, và nếu có nghe, có đọc
qua bộ máy tuyên truyền của Đảng, cũng chỉ là một “nhạc sĩ ngụy đã theo
chân đế quốc”. Biết hay không biết, nghe hay không nghe không phải là
điều quan trọng. Điều quan trọng là bài hát đã đáp ứng được ước vọng về
tương lai và tình yêu tổ quốc của tuổi trẻ. Tổ quốc, vâng, không có gì
lớn hơn tổ quốc.
Văn hóa không phải chỉ là đời sống của một dân tộc mà còn là những gì giữ lại được sau những tàn phá, lãng quên. Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ sau
30 tháng Tư 1975 hẳn đã nằm trong danh sách các tác phẩm “văn hóa đồi
trụy” mà đảng tìm mọi cách để xóa bỏ, tận diệt. Thế nhưng, như giọt nước
rỉ ra từ kẽ đá và như bông hoa mọc giữa rừng gai, bài hát đã sống sót,
đã ra đi và đã trở về.
Để tồn tại, một bài thơ, một bản nhạc cũng phải trải qua những gạn lọc,
những cuộc bỏ phiếu công bằng không chỉ của người nghe, người đọc dưới
một chế độ chính trị nào đó mà còn của cả lịch sử lâu dài. Bài hát phát
xuất từ tình yêu nước trong sáng như Việt Nam quê hương ngạo nghễ sẽ ở
lại rất lâu trong lòng tuổi trẻ Việt Nam hôm nay và nhiều thế hệ mai
sau.
Là một người thích tham gia các sinh hoạt văn nghệ cộng đồng, bài hát mang tôi về thời trẻ tuổi của mình.
Tôi còn nhớ, mùa hè 1973, khi còn là sinh viên năm thứ nhất, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ cũng
là nhạc sinh hoạt chính của trại hè sinh viên toàn quốc quy tụ đại diện
sinh viên các trường đại học và cả sinh viên du học về nghỉ hè, do Bộ
Giáo dục và Thanh niên tổ chức lần đầu và có lẽ cũng là lần cuối tại
trường Thiếu Sinh Quân, Vũng Tàu. Đêm trước ngày chia tay, chúng tôi
không ai ngủ được. Ngày mai sẽ mỗi người mỗi ngả, chị về Huế, anh về Đà
Lạt, em về Cần Thơ và đa số chúng tôi sẽ trở lại Sài Gòn. Cùng một thế
hệ chiến tranh như nhau, khi chia tay biết bao giờ còn gặp lại.
Những ngày tháng đó, cuộc chiến vẫn còn trong cao điểm. Mỹ đã rút quân
nên máu chảy trên ruộng đồng Việt Nam chỉ còn là máu Việt Nam. Thảm cảnh
của “mùa hè đỏ lửa” chưa qua hết. Trên khắp miền Nam, đâu đâu cũng có
đánh nhau, đâu đâu cũng có người chạy giặc. Mơ ước của tuổi trẻ chúng
tôi là được thấy một ngày đất nước hòa bình, một ngày quê hương không
còn nghe tiếng súng. Đêm cuối trại hè, chúng tôi ngồi quây quần thành
một vòng tròn rộng quanh cột cờ trường Thiếu Sinh Quân và hát nhạc cộng
đồng như để vơi đi những vương vấn, lo âu đang trĩu nặng trong lòng. Bài
hát được hát nhiều nhất trong đêm đó là Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ, và khi điệp khúc cất lên cũng là khi chúng tôi hát trong nước mắt:
Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại
Xương da thịt này cha ông miệt mài
Từng ngày qua
Cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi.
Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang
Trên bàn chông hát cười đùa vang vang
Còn Việt Nam
Triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng.
Những giọt nước mắt của tuổi sinh viên nhỏ xuống xót thương cho dân tộc
mình. Tại sao có chiến tranh và tại sao chiến tranh đã xảy ra trên đất
nước chúng tôi mà không phải tại một quốc gia nào khác? Mấy tháng sau,
tháng Giêng năm 1974, bài hát Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đã
được hát vang trên đường phố Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, Cần Thơ sau khi
Hoàng Sa rơi vào tay Trung Cộng. Những bản tin đánh đi từ Đà Nẵng, danh
sách những người hy sinh được đọc trên các đài phát thanh làm rơi nước
mắt.
Và hôm nay, ba mươi ba năm sau, trong cái lạnh mùa đông trên xứ người, những lời nhạc Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ như
xoáy vào tim. Tôi lại nghĩ đến các anh, những người đã hy sinh ở Hoàng
Sa tháng Giêng năm 1974, ở Trường Sa tháng Ba năm 1988. Các anh khác
nhau ở chiếc áo nhưng cùng một mái tóc đen, một màu máu đỏ, một giống da
vàng, cùng ăn hạt gạo thơm, hạt muối mặn, cùng lớn lên bằng giòng sữa
mẹ Việt Nam, và cùng chết dưới bàn tay hải quân Trung Cộng xâm lăng.
Việt Nam, sau hơn ba mươi ba năm “độc lập, tự do” vẫn chưa thoát ra khỏi
số phận nhược tiểu bị xâm lược, vẫn chưa tháo được cái vòng kim cô
Trung Cộng trên đầu. Việt Nam có một lãnh hải dài trên ba ngàn cây số
nhưng thực tế không còn có biển. Cả hành lang Đông hải rộng bao la từ
Hải Nam đến Hoàng Sa và xuống tận Trường Sa đã bị Trung Cộng chiếm. Nếu
vẽ một đường cung dọc theo lãnh hải đó, ngư dân Việt Nam chỉ còn có thể
đi câu cá ven bờ chứ không thể đánh cá như ngư dân Trung Quốc, Nhật Bản,
Thái Lan hay các quốc gia khác trong vùng biển Đông. Phía sau tấm bảng
in đậm “mười sáu chữ vàng” hữu nghị thắm thiết giữa hai Đảng Cộng sản
Việt Nam và Trung Quốc là thân xác của ngư dân Việt Nam trôi bềnh bồng
dọc các hải đảo của tổ tiên mình để lại.
Trong suốt dòng lịch sử, họa xâm lăng từ phương Bắc vẫn là mối đe dọa
thường xuyên. Khác với các thời đại trước đây, cái bất hạnh của Việt Nam
ngày nay không phải chỉ là mất đất nhưng mất đất mà không đòi lại được
ngay. Cuộc kháng Nguyên lần thứ nhất trong hàng vương tước nhà Trần chỉ
có mỗi Trần Nhật Hiệu chủ trương “Nhập Tống” và lần thứ hai chỉ có Trần
Ích Tắc và đám hầu tước Trần Kiện, Trần Văn Lộng, Trần Tú Viên chủ
trương “Hàng Nguyên” nhưng ngày nay, về mặt lập trường quan điểm, Việt
Nam có đến 14 Trần Ích Tắc và 160 Trần Kiện.
Trận đụng độ giữa Việt Nam và Trung Cộng diễn ra tại Trường Sa năm 1988
theo tác giả Daniel J. Dzurek trong biên khảo Xung Đột Trường Sa: Ai có
mặt trước? (The Spratly Islands Dispute: Who’s on First?) chỉ kéo dài
vỏn vẹn 28 phút và Việt Nam chịu đựng hầu hết thương vong. Với một giới
lãnh đạo tham quyền cố vị và sự chênh lệch quá xa về kỹ thuật chiến
tranh như thế, cuộc đấu tranh giành lại hai quần đảo sẽ vô cùng khó
khăn.
Dù sao, tuổi trẻ Việt Nam, khác với các thế hệ Tân Trào, Pác Bó trước
đây, thế hệ Hoàng Sa, Trường Sa ngày nay có nhiều cơ hội tiếp xúc, học
hỏi và so sánh giữa chế độ các em đang sống với các tư tưởng tự do dân
chủ, khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhờ đó, hy vọng các em sẽ có những
chọn lựa đúng cho mình và cho đất nước phù hợp với dòng chảy của văn
minh nhân loại.
Trong cuộc chiến Việt Nam dài mấy mươi năm Đảng đã sản xuất ra không
biết bao nhiêu bài hát, bài thơ kích động lòng yêu nước nhưng tại sao
các em không đọc, không hát nữa?
Như một độc giả trong nước đã trả lời, đơn giản chỉ vì chúng nhạt nhẽo. Ý
thức sâu sắc đó đã được thể hiện không chỉ trong khẩu hiệu các em hô mà
ngay cả trong những bài hát các em hát. Sau những Như có Bác Hồ Trong
Ngày Vui Đại Thắng, Dậy Mà Đi, Nối Vòng Tay Lớn của những ngày đầu phong
trào, các bạn trẻ trong nước đã đi tìm những nhạc phẩm nói lên lòng yêu
nước trong sáng, tích cực, không bị ô nhiễm, chưa từng bị lợi dụng và
họ đã tìm được Việt Nam quê hương ngạo nghễ.
Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng
Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm
Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi
Ôm vết thương rỉ máu ta cười dưới ánh mặt trời.
Mỗi khi nhắc đến những khó khăn đất nước, chúng ta thường nghe đến những
“bất hạnh”, “nỗi đau”, “tính tự ti mặc cảm”, vâng đó là một thực tế hôm
nay, thế nhưng dân tộc Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu, nước non
bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” như Nguyễn Trãi khẳng
định, không phải chỉ biết đau, biết tự ti mặc cảm mà thôi nhưng từ những
nỗi đau đã biết lớn lên bằng tự hào và kiêu hãnh làm người Việt Nam.
Chỗ dựa tinh thần của tuổi trẻ Việt Nam hôm nay không có gì khác hơn là
lịch sử. Không thể làm nên lịch sử mà không cần học lịch sử. Lịch sử sẽ
là vũ khí, là hành trang trong hành trình tranh đấu cho một nước Việt
Nam mới, cũng như để xây dựng một Việt Nam tươi đẹp sau nầy.
Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người
Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam
Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian
Hỡi những ai gục xuống ngoi dậy hùng cường đi lên.
Việt Nam quê hương ngạo nghễ như giọt nước mắt bi tráng của tuổi
trẻ Việt Nam ngày nào nhỏ xuống trên quê hương chiến tranh khốn khổ, đã
bốc thành hơi, tụ thành mây và sau bao năm vần vũ khắp góc bể chân trời
đã trở về quê hương qua ánh mắt của em, qua nụ cười của chị, qua tiếng
hát của anh, hồn nhiên và trong sáng.
Từ “vết thương rỉ máu” của một dân tộc đã từng bị nhiều đế quốc thay
phiên bóc lột, lợi dụng và hôm nay còn đang chịu đựng trong áp bức của
độc tài đảng trị, Việt Nam quê hương ngạo nghễ cất lên như một lời
khuyên, hãy sống và hãy vững tin vào lịch sử, sẽ có một ngày, sẽ có một
ngày.
Trần Trung Đạo
Ánh sáng Điếu Cày
Bài viết Trần Trung Đạo -
YêuQuêHương trình bày
Trần Trung Đạo (Danlambao)
- Khi trục xuất anh Điếu Cày ra khỏi Việt Nam, lãnh đạo CS nghĩ họ trục
xuất anh sang Mỹ. Với lãnh đạo CS đó là một chọn lựa khôn ngoan. Bởi
vì, theo họ, tên anh gắn liền với các phong trào chống chủ nghĩa Đại Hán
Bá Quyền Trung Cộng; phong trào do anh lãnh đạo chẳng những không bị
dập tắt dần theo năm tháng tù đày của riêng anh nhưng đã mỗi ngày một
phát triển rộng; để anh ở lại là một mối lo canh cánh bên lòng.
Từ lâu Việt Nam đã hình thành hai khối, Việt Nam CS và Việt Nam Tự Do.
Đảng không đẩy anh qua Mỹ mà đã đẩy anh về phía Việt Nam Tự Do đang có
mặt ở khắp bốn phương trời kể cả tại Việt Nam. Thả một con chim như Điếu
Cày bay vào bầu trời tự do, con chim đó sẽ không biền biệt cuối chân
mây nhưng một ngày sẽ bay về ngậm theo những hạt lúa mới. Hạt lúa dân
chủ, khai phóng, nhân bản và tình người.
Khác với nhiều người tranh đấu trước anh, có thể ra đi vì chính kiến, ra
đi vì quan điểm, ra đi vì gia đình, Điếu Cày ra đi vì trái tim khát
vọng nồng cháy. Chính kiến có thể thay đổi, quan điểm có thể thỏa hiệp
nhưng khát vọng độc lập, tự do dân tộc phát xuất từ trái tim của một con
người chỉ có chết mới thôi.
Khát vọng độc lập, tự do dân tộc như đã chứng minh trong suốt dòng lịch
sử Việt Nam, là ngọn lửa không bao giờ tắt. Hơn một ngàn năm trong bóng
đêm nô lệ nhà Hán, nhà Ngô, nhà Đường với bao nhiêu cực hình đày đọa,
sáng xuống bể tìm ngọc châu, chiều lên non săn ngà voi, trầm hương, châu
báu, nhưng dân tộc Việt vẫn bảo vệ được tính độc lập, vẫn giữ được bản
sắc văn hóa Việt trong sáng và thuần nhất. Đất nước chúng ta đã hơn một
lần bị mất đi và giành lại được, Thăng Long đã từng bị đốt cháy nhưng
chúng ta hãnh diện nói lớn rằng dân tộc Việt Nam chưa bao giờ bị mất
gốc.
Hiếm có trên một đất nước nào, ở đó, tên của một con sông, một ngọn núi,
một thôn làng, cũng có thể làm cho người dân khi nhắc đến phải rơi nước
mắt. Những Phong Hóa, Nam Quan, Mê Linh, Bạch Đằng, Vạn Kiếp, Thiên
Trường, Diên Hồng, Chi Lăng, Lam Sơn, Đống Đa, v.v... không phải chỉ là
những địa danh, mà hơn thế nữa, còn là là nơi giữ gìn anh linh hùng khí
của dân tộc Việt Nam.
Hình ảnh những chiếc búa, những chiếc rìu, những mũi thương, mũi đao,
mũi tên bằng đồng đào được ở vùng Trung Châu, Bắc Việt, ở Sông Bạch
Đằng, dọc Ải Nam Quan không chỉ là những cổ vật mà còn là chứng tích của
bao nhiêu trận mạc, bao nhiêu cuộc chiến đấu, bao nhiêu máu xương và
nước mắt của tổ tiên đổ xuống trước tham vọng của các triều đại Bắc
phương xâm lấn.
Trong lúc sự kính trọng dành cho hàng trăm nhà dân chủ đang bị tù dày
bao giờ cũng sâu đậm, tình cảm của đồng bào trong và ngoài nước dành cho
anh Điếu Cày, đặc biệt trong thời gian anh tuyệt thực đã vượt lên trên.
Tình cảm đồng bào dành cho anh giống như tình cảm của anh dành cho đất
nước: thiêng liêng, thân thương và trong sáng.
Anh Điếu Cày không phải là nhà thơ, nhà văn, nhà chính trị, nhà cách
mạng, nhà lý thuyết, nhà hùng biện, nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp. Không
phải là nhà nào cả. Anh chỉ là Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, cái tên một lần
nghe rất lạ nay đã trở thành quen thuộc và gần gũi, đặc biệt trong lòng
tuổi trẻ Việt Nam.
Anh Điếu Cày không phải là Nelson Madela của Nam Phi, Aung San Suu Ky
của Miến Điện, Vaclav Havel của Tiệp. Anh là một người Việt Nam bình
thường, đơn giản như hạt gạo, củ sắn, củ khoai, con mắm, ngọn rau nhưng
cũng vô cùng cao quý bởi vì anh nói lên khát vọng độc lập tự chủ của dân
tộc Việt Nam trong thời đại ngày nay.
Nỗi đau trong lòng anh là nỗi đau của một dân tộc định cư hơn bốn ngàn
năm trên bán đảo Đông Dương trải dài 3260 cây số nhưng nay chỉ còn bờ mà
không còn biển. Phải dành lại biển Đông, phải giành lại những hòn đảo
mang tên Việt Nam, phải giành lại những tài nguyên trong lòng biển mà
cha ông đã đổ máu để giữ gìn. Anh bước đi trên con đường quê hương gai
góc, con đường nhiều người khác không dám đi: con đường chống Trung Cộng
xâm lăng.
Mẫu số chung hôm nay là dân tộc và dân chủ. Mẫu số chung thiêng liêng đó
vượt lên trên mọi hiệp định, mọi vĩ tuyến, mọi chia cách, mọi tôn giáo,
thế hệ, trong hay ngoài nước. Mẫu số chung thiêng liêng đó không chỉ
giá trị đối với những người đã từng hy sinh, từng đổ máu để bảo vệ miền
Nam mà còn cho cả nhiều triệu đồng bào đã bị khủng bố từng ngày, từng
đêm trên đất nước.
Không giống như 70 ngàn người Nga lưu vong ở Paris sau cách mạng CS năm
1917 hay hàng trăm ngàn người Việt lưu vong ngay sau CS chiếm VNCH năm
1975, người Việt Nam tự do hôm nay không còn mang tâm trạng lưu vong
nữa. Thời đại hôm nay là thời đại của những người chết đang bắt đầu sống
lại và người đi đang lần lượt quay về. Anh Điếu Cày cũng vậy, trong
lòng anh không có khái niệm lưu vong, anh ra đi là để quay về. Và chúng
ta sẽ về.
Cuộc cách mạng tin học, cách mạng kinh tế toàn cầu, sự sụp đổ của hệ
thống CS Liên Xô và chư hầu Đông Âu đã xóa bỏ nhiều cách ngăn, biên
giới, thu ngắn thời gian và thu hẹp không gian. Anh Điếu Cày rời nhà tù,
anh ra phi trường, anh lên máy bay, anh xuống máy bay, đối với người
Việt quan tâm đến đất nước và anh, tất cả điều đó như đã diễn ra trong
cùng một không gian và cùng một múi giờ dù ở chúng ta ở đâu trên mặt đất
này. Bởi vì, không gian là trái tim Việt Nam và thời gian được tính
bằng nhịp đập của trái tim Việt Nam.
Ngày cáo chung của chế độ CS toàn trị tại Việt Nam chỉ là vấn đề thời
gian. Ngay cả những lãnh đạo cao cấp nhất của đảng CS cũng biết điều đó.
Những cường hào ác bá cai trị đất nước ngày nay không phải là những
người làm nên lịch sử mà chỉ là những kẻ làm công việc giải thích, ăn
cắp, bóp méo lịch sử cho phù hợp với tham vọng xích hóa Việt Nam của Đệ
Tam Quốc Tế Cộng Sản trước đây, và tiếp tục sống huy hoàng trên nỗi
thống khổ triền miên của dân tộc Việt Nam. Họ phải bị lật đổ.
Trước ngày 25 tháng 12 năm 1991, đảng CS Liên Xô cai trị một vùng đất có
diện tích 22 triệu 400 ngàn kilomet vuông, rộng hơn cả thời huy hoàng
nhất của Đế Quốc Nga và một đạo quân 5.3 triệu lính, nhưng không cứu vớt
được Liên Xô.
Sự sụp đổ của Liên Xô phát xuất từ nhiều lý do nhưng sâu xa nhất vẫn là
từ khát vọng độc lập tự do của các dân tộc Estonia, theo chân là
Lithuania, Latvia và lan dần sang các dân tộc khác như Azerbaijan,
Armenia, Tajikistan và Uzbekistan. Những dân tộc bị trị chiếm hai phần
ba dân số của Liên Xô và đã đấu tranh không ngừng nghỉ ngay từ ngày đầu
bị cưỡng chiếm.
Câu chuyện bi hùng về phong trào du kích Anh Em Rừng (Forest Brothers)
của các dân tộc vùng Baltics chống lại CS Liên Xô từ sau thế chiến thứ
hai là một bằng chứng hùng hồn. August Sabbe, người Estonia, kháng chiến
quân cuối cùng của Anh Em Rừng bị KGB khám phá hơn 30 năm sau, ngày 27
tháng 9 năm 1978, nhưng chúng không giết được anh. Anh đã nhảy xuống
sông Vohandu tuẫn tiết mang theo khát vọng tự do thiêng liêng. Phạm Hồng
Thái của Việt Nam trước đó đã hy sinh như thế. Cuối cùng, tinh thần dân
tộc và khát vọng dân chủ tự do của dân tộc Estonia đã thắng KGB và vượt
qua được chính sách tẩy não vô cùng thâm độc của chủ nghĩa CS.
Biển Thái Bình hôm nay là sông Bến Hải trước đây. Và thuận lợi hơn trước
thời điểm năm 1975, bên kia Thái Bình Dương, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ đất nước, vì quyền sống của con người đang bùng
lên trên mọi ngã đường, mọi giới, mọi thế hệ. Quá khứ dù có khó khăn,
hiện tại còn vất vả nhưng tương lai tươi đẹp rồi sẽ đến. Dòng sông dù
còn vẩn đục nhưng nước đang trôi nên sẽ có một ngày trong. Cánh cửa đã
mở. Ánh sáng đã rọi vào. Những người mang ánh sáng đang có mặt trên khắp
ba miền đất nước. Họ còn ít, còn yếu nhưng họ là ánh sáng, ánh sáng
Điếu Cày.
Boston, 22 tháng 10, 2014
Trần Trung Đạo
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire