Theo truyền thuyết, ông Táo là sứ giả của Ngọc hoàng Thượng đế được
biệt phái xuống trần gian để ghi chép việc thiện ác ở đời. Mỗi cuối năm
phải về Trời để dâng sớ tâu rõ công tác của mình đã làm được để Thượng
đế có cơ sở thưởng phạt công minh đối với loài người.
Táo được chia ra làm hai cấp: Thổ Táo và Thần Táo.
Thổ Táo được nặn bằng đất sét có hình dạng như hình khối chữ nhật, trên
hơi nhỏ, dưới hơi lớn, hơi khom lại, có nhiệm vụ đội nồi đội chảo trong
việc nấu nướng hàng ngày của nhân gian. Thời gian công tác của Thổ Táo
là một năm. Lúc nào cũng có đủ ba ông chụm đầu lại mới làm được việc.
Đến ngày hăm ba tháng Chạp, Táo được miễn nhiệm. Dù còn nguyên vẹn hay
đã bị sứt mẻ, người ta cũng cứ mang các ông ra an vị nơi gốc cây cổ thụ
trong làng hay dưới chân gò mối, nhường quyền đội nồi lại cho các ông
mới. Năm này qua năm khác, Thổ Táo từ trong bếp của nhiều gia đình cho
ra “định cư” cứ chồng chất cao lên thành đống. Những nơi này tự nhiên
lại trở thành chỗ linh thiêng, không ai dám cả gan đụng đến dù chưa ai
thấy được sự linh thiêng đó như thế nào.
Nhiều nhà sử dụng kiềng ba chân hoặc
hỏa lò để nấu nướng cũng ăn theo ngày ông Táo. Nghĩa là đến hăm ba tháng
Chạp cũng thay mới đổi cũ y như thế.
Dù suốt cả năm phải giam thân vào nơi
khói lửa, Thổ Táo vẫn được có người trọng vọng gọi là vua bếp. Đó cũng
là sự an ủi cho Táo.
|
Cá chép cho Táo Quân cưỡi về trời. Ảnh minh họa. |
Thần Táo không ngồi dưới bếp, mà lại được ngự trên trang thờ nghiêm túc.
Ngài là vị thần được Thượng đế sắc phong làm “Đông trù tư mạng táo phủ
thần quân” có bổn phận ghi chép việc thiện ác của con người. Vì là Thần
nên không ai biết hình dạng của người ra sao, do đó người ta cứ tha hồ
mà tưởng tượng. Và cũng do từ chức năng của Ngài mà mọi người đều phải
kính cẩn đèn chong hương thắp thường xuyên.
Thời gian ông Táo về chầu trời, những
người lếu láo thường hay vui miệng đùa “Có nói bậy nói bạ, làm sai quấy
điều gì” cũng không sợ ông Táo biết được.
Hồi ông nội tôi còn sống, đến ngày hăm
ba tháng Chạp sau lễ cúng tiễn đưa ông Táo về trời, cụ thường bảo chúng
tôi: “Đêm nay ráng thức để nghe ông Táo xé dây đai cột áo về trời!”. Cụ
bảo đùa, nhưng chị em chúng tôi tưởng thật, cố ý để tâm ngoài vườn
chuối. Trời khuya im ắng, thỉnh thoảng chỉ nghe có tiếng gió khua xào
xạc, không nghe được có tiếng ai xé dây chuối cả.
Ông nội tôi tuy nói đùa, nhưng cũng có
cái lý của cụ. Xưa nay không ai nói ông Táo có mặc quần bao giờ. Thực
tế đã chứng minh điều này.
Lễ cúng đưa, ngoài chè xôi hoa quả,
thế nào cũng phải có một “bộ đồ ông Táo” mua về từ hàng quán để ông Táo
có áo mới mà mặc khi về chầu trời. “Bộ đồ ông Táo” chỉ gồm ba chiếc áo
dài cắt ra từ loại giấy ngũ sắc, tuyệt nhiên không thấy có chiếc quần
nào. Kèm theo với bộ đồ ấy, thế nào cũng có một xấp vàng bạc để ngoài
làm lộ phí đi đường.
|
Cứ vào hăm ba tháng Chạp, gia đình nào cũng nấu chè xôi
hoặc bánh trái để làm lễ tiễn đưa ông Táo về chầu trời. Ảnh: Internet. |
Tôi không hiểu sao Táo gồm có một bà hai ông. Tuy nhiên theo sự tích lý
giải thì: Thuở xưa, có hai vợ chồng nhà kia sống với nhau thật hạnh phúc
trong sự giàu sang. Người chồng vì sự giàu có mà sanh tánh tiêu pha
phung phí. Đến lúc khánh tận, buồn bã bỏ nhà ra đi. Người vợ kiên nhẫn ở
lại, cần mẫn làm ăn đợi chồng về. Đến lúc có ăn có mặc trở lại, người
chồng xưa cũng vẫn biền biệt không nghe tin tức gì. Đợi lâu không thấy
chồng về, người vợ bèn lấy chồng khác.
Một hôm, trong lúc chồng vắng nhà, đột
nhiên thấy có một gã hành khất đến cửa ăn xin. Nhìn người đàn ông tiều
tụy, hốc hác, người vợ cũng nhận ra được chồng cũ của mình. Giữa khi hai
người còn đang quấn quýt tâm sự bên nhau thì bất chợt người chồng mới
trở về. Người vợ hốt hoảng, đem giấu chồng cũ vào đống rơm sau hè. Tưởng
là yên, ai ngờ lúc nhen lửa nấu bếp bị gió thổi làm bay tàn lửa bốc
cháy đống rơm. Thấy chồng cũ bị cháy thiêu, người vợ thương tình nhảy
vào chết chung với chồng. Người chồng mới thấy vợ mình chết cũng không
đành lòng, nhảy vào chết theo.
Thượng đế thương tình cho cả ba người
được làm vua bếp, phong chức “Đông trù tư mạng táo phủ thần quân”. Chỉ
là “thần quân” mà không thấy có “thần nương” thì chắc là còn phân biệt
nam nữ. Vì thế mà người đời cũng chỉ gọi là ông Táo.
Táo chắc yêu thích trẻ con nên thường
hay chọc ghẹo. Chẳng thế mà, trẻ con có ấm đầu sổ mũi người ta vẫn
thường đổ thừa cho ông Táo quấy phá. Và thế là cứ xuống bếp lấy một chút
lọ nghẹ trên đầu ông Táo quẹt lên giữa trán trẻ con để làm phép.
Táo cũng vốn là ông thần hiền từ,
không làm hại ai. Vậy mà khi oán ghét ai, hoặc trả thù, người ta đã lấy
hình ảnh của tên đối thủ đem dằn dưới đít ông Táo để ếm đối, trù ẻo.
Những việc làm trên, chỉ thấy làm mà không thấy có kết quả. Đó cũng chỉ là hình thức mê tín của thời trước, nay chắc không còn.
Ngày nay dường như không còn ai dùng
ông Táo để nấu bếp nữa. Có chăng cũng chỉ là ít ỏi nơi những làng quê
hẻo lánh. Thời buổi văn minh hiện đại, việc nấu ăn đã thay thế bằng bếp
ga, bếp điện. Táo không còn phải khổ cực sống trong khói lửa để quanh
năm suốt tháng phải đội nồi, đội chảo. Nhưng thần Táo thì vẫn thấy nhiều
nhà còn thờ. Ngày hăm ba tháng Chạp mỗi năm, lệ cúng ông Táo vẫn còn
lưu giữ. Đó là một trong những tập tục truyền thống của dân tộc ta.
Theo Giác Ngộ
*
* *
Táo Quân, Không
Phải Của Riêng
Người
Việt
Nam
Nhất Thụ Đỗ Thiên
Thư
Hăm
ba tháng Chạp tới rồi,
Hôm nay ông Táo về trời
phải không?
Đường trời diệu
vợi, mênh mông,
Ông đi hỏa tiễn? hay dùng phi cơ?
Văn minh thời buổi bây giờ,
Người ta tiến bộ nên lờ ông
luôn
Ngựa ông, cá chép không
còn,
Đầu ông, cái mũ cánh
chuồn cũng không
Thói đời khoa học cuồng ngông.
Còn toan phế thải Táo Công về vườn.
Chỉ nói cách đây chừng
hai mươi năm, mỗi dịp sửa soạn đón xuân về, tất cả mọi gia đình
Việt Nam không
thể nào bỏ qua được
lễ ông Táo. Hôm ấy là ngày
hai mươi ba tháng chạp
âm lịch - tại sao lại
hai mươi ba? - khi
ấy cành nêu chưa dựng,
bánh chưng chưa nấu, nhưng nhịp sống khắp nơi từ thành thị đến thôn quê bắt đầu
lắng xuống, và mỗi bà
nội trợ hôm đó đi
chợ, không ai bảo ai,
mà đều nhớ mua một
con cá chép thật to. Cá phải lựa cho kỳ được
con nào thật tươi, thật khỏe. Về đến nhà,
việc đầu tiên là kiếm
một chậu nước rồi thả vào, mặc cho cá
bơi. Đàn trẻ nhỏ vừa tò mò,
vừa thích thú, đang định lấy chiếc que chọc cho cá quẫy mạnh,
thì đã bị mắng, vội rụt tay lại,
nhưng không quên nêu ra
câu hỏi ngây thơ:
- Mẹ ơi! Mua cá để làm gì?
Bà mẹ hiền, tuy
hơi bực mình, nhưng cũng đành phải trả
lời: "Cá để làm ngựa cúng ông Công".
"Cá mà lại làm
ngựa?". Tất nhiên lũ trẻ phải nghĩ
như vậy nhưng biết rằng chuyện cúng lễ
là việc rất quan trọng của người lớn,
hỏi thêm nữa có thể bị ăn đòn, nên chúng
rủ nhau lảng đi chơi.
Thực ra, các vị
nội trợ đảm đang và hiền từ của
chúng ta nhiều lúc cũng phải tự mình hỏi mình:
"Tại sao Táo Quân lại cần đến cá chép?".
Điều này, cho đến nay vẫn còn là bí mật,
hoặc giả người nào đầu tiên đã
đặt ra những tục lệ đó cũng chỉ do
một sự tình cờ.
Lục trong
đống sách vở cũ, chúng ta chỉ được
biết thêm rằng cá chép có tên là "lý ngư" vốn
được coi là một giống thông minh trong loài
thủy tộc. Người ta còn chép truyện ở
vực vũ môn, thuộc ngọn sông Dương Tử,
tỉnh Tứ Xuyên bên Tàu, có giống cá chép, hàng năm
đến đó thi nhau nhảy, con nào vượt khỏi
sẽ hóa rồng.
SỰ TÍCH VUA BẾP
Từ con cá chép
đến ngựa ông Táo, rồi lại từ Táo quân
đến ngày 23 cuối năm, quả thực phong
tục tín ngưỡng của ông cha chúng ta đã có
những gì rất đặc biệt nhưng cũng
rất mịt mờ. Nhưng, chưa hết! Lễ ông
Táo, ngoài con cá chép, có nhiều nhà kèm thêm hai cây mía dài, dựa
hai bên bàn thờ, nói là làm gậy cho ông chống đi
đường lên chầu trời. Không kể đến
ba chiếc mũ cánh chuồn, ba bộ áo và ba đôi hia
bằng giấy bắt buộc phải có, nếu không thì
nhất định không phải là lễ Táo Công!
Nhắc đến con
số 3 trên đây tức là phải kể đến
chuyện cổ tích Táo Quân:
Ngày xưa, tại
Việt Nam, có một cặp vợ chồng tên là Trọng
Cao và Thị Nhi. Họ không có con, anh chàng Trọng Cao mê
đánh bạc. Khuyên can chồng nhiều lần không
được, Thị Nhi bỏ nhà ra đi. Một ngày
kia, trên bước đường lưu lạc, nàng
gặp một người đàn ông thương tình giúp
đỡ và nhiều lần che chở. Cảm vì nghĩa,
trọng vì tài, Thị Nhi kết duyên với chàng, tên anh là
Phạm Lang. Trọng Cao đánh bạc thua nhiều, nên gia
cảnh ngày càng sa sút, cho đến lúc hóa thành trắng tay. Buồn
cho mình, lại nhớ đến người vợ
khổ sở khi xưa, anh quyết chí đi tìm. Giữa
một ngày 23 tháng Chạp cuối năm, định
mệnh dun dủi dẫn anh tới cửa nhà vợ
cũ, khi ấy đã ôm cầm thuyền khác. Gặp
người chồng mặc dù xưa kia lầm lỗi,
nhưng lúc đó đã thành một người hành
khất, rách rưới đáng thương, Thị Nhi
không cầm được lòng, lại nhân khi Phạm Lang
đi săn vắng, liền đem cơm và quần áo ra
giúp cho Trọng Cao. Tình xưa nghĩa cũ, đôi bên còn
đang khóc lóc, hàn huyên, thì chợt Phạm Lang đi săn
đã về tới cổng.
Trong một phút không
kịp đắn đo, Thị Nhi tưởng như mình
đang làm một việc lầm lỗi, ám muội. Nàng xui
Trọng Cao ẩn vào trong một đống rơm ngoài sân
bếp. Trớ trêu làm sao, Phạm Lang lại vừa săn
được một con nai, nên anh quăng con vật vào
giữa đống rơm rồi châm lửa đốt
để làm thịt. Ngọn lửa bốc to, mà Trọng
Cao vì không muốn làm hại đến danh giá của
vợ cũ, nên đành chịu chết cháy. Thị Nhi
thấy vậy cảm thương cũng nhảy vào
đống lửa. Đến lượt chàng Phạm
Lang, thấy vợ hủy mình, cũng nhảy vào lửa
chết theo.
Chuyện kể
tiếp rằng, về sau Ngọc Hoàng Thượng
Đế thấy cả ba người đều có
tiết nghĩa nên phong cho làm ba vị thần Táo Quân,
được dân gian hàng năm hương khói phụng
thờ.
Tất cả giai
thoại trên, nhằm giải nghĩa điển tích
"hai ông một bà" đối với chúng ta, chỉ
là một chuyện tưởng tượng vừa ngớ
ngẩn vừa buồn cười. Có thể một câu
chuyện tương tự đã từng xảy ra,
nhưng tất nhiên nó không liên quan gì đến ông "Vua
Bếp".
TÁO QUÂN TRUNG HOA
Bằng chứng là
người Trung Hoa cũng có Táo Quân. Ông Táo Tàu
được liệt kê trong danh sách những vị
thần của Lão Giáo, trông coi việc nhân gian. Theo
đạo Lão, thế gian chia làm ba giới: thiên đình, âm
phủ và thủy phủ. Đứng đầu hết là
Thái Thượng Lão Quân, ở thiên đình thì có Tứ
Đại Thiên Vương, Nhị Thập Bát Tú, Lôi
Thần, Vũ Thần, Vân Thần, và Phong Thần. Trông coi
việc nhân gian là Nam Tào coi việc sanh, Bắc Đẩu
giữ sổ tử cùng với Ngũ Phương
Thần, Tứ Thời Thần, Đương Niên
Thần, Đương Cảnh Thần, Thành Hoàng Thần,
Thổ Công, Táo Quân, Môn Thần, Tài Thần Văn
Xương Đế Quân, Quan Thánh Đế Quân… Ở âm
phủ thì có Thập Điện Diêm Vương Địa
Tạng Vương; thủy phủ có Tứ Hải Long
Vương cùng các vị Hà Bá.
Táo Quân Trung Hoa rất
linh thiêng, có lẽ vì ông ở trong bếp nên biết
hết chuyện của người đời. Hàng
năm, vẫn theo sách vở Lão Giáo, thì cứ đến
ngày 23 tháng Chạp, cách một tuần bước sang năm
mới các vị Táo Quân lại trở về trời
để tâu hết việc thiện ác của nhân gian.
Hà Nguyên Phủ, một
học giả đời Thanh, trong cuốn "Táo Công
truyện" và "Táo Công kinh", kể rằng thi
sĩ Tô Đông Pha, khi làm Thái Thú đất Tô Châu, đã nhờ
Táo Quân hiển linh, mà diệt được bệnh thiên
thời, cứu nguy cho dân chúng. Vào một đêm 23 tháng
Chạp, Thái Thú họ Tô, nằm mơ thấy một
vị thần mũ cao áo dài, tự xưng là Táo Quân,
cưỡi ngựa đến trước phủ, kêu ông
mà bảo rằng: "Đất Tô Châu này hung thần
nhiều, cát thần ít. Các vị cát thần thấy hung
thần lộng hành quấy phá nhân gian nên chán nản bỏ
đi. Bọn hung thần mặc sức hoành hành, nhiễu
hại dân lành, bắt đem về nộp cho Diêm
Vương, xung vào đội binh quỷ sứ. Vậy
muốn dân được bình yên, phải giết trâu bò làm
lễ cúng các hung thần, cầu xin họ dời đi
nơi khác".
Tô Đông Pha, tỉnh
dậy, làm theo lời Táo Quân truyền, quả nhiên sang
năm sau bệnh dịch biến hết. Nhớ ơn ông
Táo mách bảo, Tô Thái Thú truyền cho dân trong toàn hạt Tô
Châu, từ đó mỗi năm cứ đúng ngày thần
mộng, lại sắm áo mũ giấy, ngựa giấy
để cúng Táo Quân, tiễn đưa ông Táo lên trời.
Tục lệ cúng hia
mũ cho ông Táo có lẽ bắt đầu từ
đời nhà Thanh truyền khắp nước Trung Hoa
rồi sang Việt Nam.
Lễ ông Táo, nếu
theo đúng sách, phải lập hai bàn thờ, bởi vì theo
thuyết của Hà Nguyên Phủ: Táo Quân có hai vị, một
vị coi sóc tật bệnh, một vị xem xét tội ác,
nên phải cúng hai bộ y phục giấy, ngựa giấy
mới đủ.
Người Việt
Nam thường cúng Táo Quân và khấn theo sách "Thọ Mai
Gia Lễ" của Hồ Gia Trân: "Đông Trù tư
mệnh, Táo Phù Thần Quân, cúi xin chứng giám. Ngày tháng thoi
đưa, năm vừa tháng Chạp, các tội lỗi
đầu năm chí cuối, xin ngài châm chước ít
nhiều. Trong cửa nhà, từ trẻ đến giá, xin
ngài phù hộ cho mạnh khỏe".
Ngày lễ Táo Quân,
tại miền Nam trước đây, có tục đốt
hết chân hương ở bàn thờ, rồi thay cát
trắng mới vào mấy bình hương.
Người ta
thường lẫn Táo Quân với Thổ Công. Thổ Công
là vị thần được thờ phụng suốt
năm, bất cứ ngày kỵ lạp nào cũng phải
được nhắc đến. Và Táo Quân cũng không
phải là vị thần Hành khiển được cúng
vào chiều ba mươi cuối năm. Sách "Chu
Lễ" có từ đời nhà Châu, cho rằng có 12
vị thần Hành khiển lần lượt thay
đổi nhau:
Năm Tý: Lý Tào phán quan,
Chu vương hành khiển.
Năm Sửu: Khúc Tào
phán quan, Triệu vương hành khiển.
Năm Dần: Tiêu Tào
phán quan, Ngụy vương hành khiển.
Năm Mão: Liễu Tào
phán quan, Trịnh vương hành khiển.
Năm Thìn: Biểu Tào
phán quan, Sở vương hành khiển.
Năm Tỵ: Hứa
Tào phán quan, Ngô vương hành khiển… vân vân và vân vân.
TÁO QUÂN HY LẠP
Trong bầu không khí rét
mướt của một chiều cuối đông, hai bàn thờ
đặt trước sân bếp, những nén hương
khói lên cuồn cuộn, tiếng xuýt xoa khấn vái của
vị gia chủ khăn đóng áo dài, với bóng dáng vô hình
của các vị linh thần lẩn khuất đâu đây,
làm tăng thêm sự trang trọng của thời gian và
của kiếp người. Bầy trẻ nhỏ thì thầm
bảo nhau: "Thế là ông Táo đã lên chầu
trời!". Trong bếp, bà mẹ hiền đang
đốc thúc gia nhân đem mấy cỗ đầu rau,
mấy chiếc hỏa lò năm cũ ra chôn ngoài
vườn, rồi quét dọn bếp nước sạch
sẽ, đặt vào đấy vài cỗ đầu rau
mới.
Nhìn vào cỗ
đầu rau, chúng ta chợt hiểu cái bí ẩn của
sự tích "hai ông một bà": bà đầu rau chính là
khối đất nặn nhẵn nhụi chắc nịch
đặt ở giữa, với hai "ông" là hai
khối đất khác, mảnh mai và hơi cao hơn,
đặt phía trước, phân ra hai bên.
Táo Quân, Táo Công hay
"Vua Bếp" của chúng ta chính là hình ảnh
tượng trưng cho mỗi gia đình, chồng vợ,
cha mẹ, anh em, con cái sống chung dưới một mái
nhà, vui vẻ có nhau, lo buồn có nhau.
Cùng một văn minh
Đông Phương người Nhật Bản hình dung Táo
Quân bằng vị thần Inari. Thần Inari Nhật không
thờ trong bếp, mà lại thờ ngoài vườn. Cũng
như Táo Quân, Inari bảo vệ cho từng gia đình, và
mỗi năm phải được cúng vào ngày Ngọ
thứ nhất. Inari lại có hai chú hồ ly là bộ
hạ, làm môi giới trần gian. Bởi vậy muốn
được Inari ban phúc cho trước hết phải
lo lót với hai chú hồ ly, được tạc
tượng miệng ngậm một chiếc thìa khóa. Thần
Inari có đền thờ chính tại tỉnh Yamasiro, ngày nay
là Usimi. Thần rất ưa được cúng bằng
những chiếc bánh đậu hũ chiên, gọi là
"Gammodoki". Thần là một trong vô số các vị
Kami, linh thần ban phúc giáng họa cho trần gian.
Người Tây
Phương, khi mới đặt gót tới Việt Nam và
Trung Hoa, thấy có tục thờ cúng Táo Quân, họ liền
theo thần thoại Hy Lạp mà dịch "Vua Bếp"
là Dieux Lares.
Lares, Táo Quân Hy Lạp,
vốn có nguồn gốc từ văn minh étrusque, cổ Ý
Đại Lợi, phát triển rất sớm từ
hơn một ngàn năm trước Thiên Chúa kỷ nguyên. Lares
là vị thần chủ yếu của mỗi gia đình,
dưới vị thần này còn có các "dieux mânes", nói
chung những người đã khuất. Thần Lares
được thờ chung với thần Pénates, trông coi
về sự thịnh vượng sung túc, cũng như
người giữ thức ăn. Táo Quân Hy Lạp
được hình dung với một con chó nằm phủ
phục dưới chân. Mỗi buổi sáng, thần
được cúng dâng các món ăn, hoa trái và rượu
chát. Táo Quân cũng được người Hy Lạp
tượng trưng bằng ngọn lửa để trên
bàn thờ mỗi gia đình, và phải được
giữ cho không bao giờ tắt. Sự tín ngưỡng
thần thoại làm cho người ta tin rằng, nếu
không may ngọn lửa thờ bị tắt đi, thì gia
đình không thể thoát khỏi sự lụn bại suy
vong. Không cứ mỗi nhà có Táo Quân, mà mỗi làng, mỗi
tỉnh, quốc gia đều có một Táo Quân. Khi nào, thành
phố gặp tai nạn, bị phá hủy, thì người
ta phải cố gắng bảo vệ ngọn lửa
thiêng và mang đi nơi khác. Do đó, thần thoại Hy
Lạp có câu chuyện hòang tử Eneé, khi thành Troie bị
người Hy phá hủy, mang lửa thì Táo Quân trốn, sang
miền Ý Đại Lợi ngày nay, kết duyên với nàng
Lavinie, rồi lập ra xứ La Mã.
ÔNG TÁO VẪN CÒN
Ngày nay, trừ ra
một số rất ít gia đình nệ cổ còn giữ
tục cúng ông Táo, ông "Vua Bếp" linh thiêng
cưỡi cá chép, đội mũ cánh chuồn đã
gần biến hẳn trong nếp sinh hoạt của
người dân Việt Nam. Khoa học văn minh với
những bếp điện, tủ lạnh, đã đánh
những đòn cuối cùng để kết thúc chiến
dịch "Chống ông Táo" khởi đầu từ
phong trào văn nghệ Tự Lực văn đoàn với
những tuần báo trào phúng "Phong Hóa" và "Ngày Nay",
kể từ khoảng năm 1935.
Táo Quân không còn nữa
trong tín ngưỡng, nhưng dưới một hình
thức khác, vẫn còn tồn tại trong văn
chương. Hàng năm, trong những tập báo Xuân, hay báo
Tất niên, chúng ta vẫn có những bài "lập bô"
của ông Táo, kết toán niên đế, với những
giọng hài hước, cay chua. Trong một số báo
tết "Phong Hóa" trước đây, các nhà văn
Tự Lực đã diễu ông Táo bằng một bài thơ
về sự "không mặc quần".
Hăm ba ông Táo dạo
chơi Xuân
Đội mũ đi
hia, chẳng mặc quần
Trời hỏi:
"Làm sao ăn mặc thế?"
Thưa rằng: "Hạ
giới nó duy tân!"
Hẳn không còn ai
lấy những chuyện diễu cợt đó làm phiền
lòng. Cũng như chúng ta đã từng thích thú và buồn
cười khi ngâm nga những vần "Gởi ông
Táo" của một thi sĩ nho gia: Đồ Cổ.
Hôm nay tháng Chạp,
hăm ba,
Phố phường
nhộn nhịp sao nhà vắng không?
Lẽ ra vàng khối,
mũ rồng
Bởi chưng thua
bạc nên không có gì.
Lòng thành xin tiễn ông
đi
Thiên đình cuốc
bộ, ông thì tâu cho
Tâu dùm cho phận nhà nho
Ơn trời mạnh
giỏi ấm no đủ dùng
Không ham gì miếng đỉnh chung
Không cầu phú quý, không
mong phát tài
Đã bao nhiêu bận tâu trời
Mỗi năm một lượt, phí lời không
đâu
Năm nay chán chẳng buồn tâu
Máy mồm dặn với mấy câu gọi
là
Để tôi trêu cụ Trời
Già
Điên gan, cụ tức thằng cha dở người
...
Cái duyên của Táo Quân
với báo chí Việt Nam hẳn sẽ còn dài. Dưới mỗi ngọn
bút đặc sắc, ông Táo biến thành muôn hình
muôn vẻ. Biết đâu đấy không là một cách
hiệu nghiệm nhất để giữ lại những sắc thái của dân tộc, những vang bóng của nếp sống cũ, mà thời
đại văn
minh nguyên tử luôn luôn bắt
buộc chúng ta phải gạn
lọc khắt khe, đem sắp
xếp nó vào những tủ sách, những viện Bảo tàng
Nhất
Thụ Đỗ Thiên Thư
newvietart.com
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire