mardi 23 septembre 2014

Phim tài liệu 'Last Days in Vietnam'

000_482875605.jpg  
 Từ trái qua: Mark Famiglio, Bridget Kennedy-Bailey, Rory Kennedy, Jennie Famiglio và Tướng John F. Kelly tại Khai mạc Liên hoan phim Sarasota, Florida với Last Days In Vietnam của Rory Kennedy hôm 4/4/2014. 


Phim tài liệu 'Last Days in Vietnam'
Hoài Vũ, phóng viên RFA
Phim tài liệu Last Days in Vietnam của đạo diễn Rory Kennedy mô tả lại những giờ khắc cuối cùng trước khi Mỹ rút khỏi Việt Nam miêu tả hàng nghìn người chen lấn trước cửa sứ quán Mỹ ở Sài Gòn; đoàn người rồng rắn lên nóc một toà nhà để lên trực thăng rời khỏi Việt Nam. Sài Gòn hỗn loạn trong 24 giờ trước khi quân đội Bắc Việt tấn công vào Sài Gòn. Bộ phim đã được trình chiếu rộng rãi vài ngày trước đây tại Mỹ.
Tháng 4 năm 1975, những đồn đoán về quân đội Bắc Việt bao vây Sài Gòn khiến nhiều người lo lắng muốn di tản khỏi Việt Nam. Lúc này, quân đội Mỹ đã rút khỏi miền Nam sau khi hiệp định đình chiến Paris được ký kết. Tổng thống Richard Nixon, từng hứa sẽ đưa quân Mỹ tái tham gia chiến tranh nếu miền bắc phá vỡ lệnh ngừng bắn, thì lại từ chức vì bê bối trong vụ nghe lén có tên Water Gate.
Người dân Mỹ lúc này không còn sức để theo đuổi cuộc chiến đã chia rẽ sâu sắc cả đất nước. Quốc hội Mỹ không mặn mà gì trước đề nghị của Tổng thống Gerald Ford về việc cấp hàng chục triệu đôla để di tản người Việt Nam làm việc cho các cơ quan Mỹ.
Trong khi đó, một vài quan sĩ quan trong sứ quán Mỹ tự mình tìm cách đưa những người Việt Nam giữa thời điểm nước sôi nửa bỏng này để di tản. Đạo diễn Rory Kennedy tái hiện những sự kiện trên trong bộ phim tài liệu mới có tên “Last Days in Vietnam”.
Nói với chúng tôi đạo diễn Rory Kenedy chia sẻ cảm nghĩ của bà ngay vào lúc này, khi cuốn phim đã hoàn tất:
Ngay cả bây giờ khi tôi xem phim tôi vẫn nóng ruột không biết điều gì sẽ xảy ra với những người Việt Nam đó: ai sẽ di tản được, ai sẽ phải ở lại. Tôi nghĩ những ký ức đó sẽ đọng lại trong tôi mãi mãi.
Khoảng 11h sáng ngày 29/4/1975 trước khi Sài Gòn bỏ ngõ, đài phát thanh của Mỹ phát đi bản nhạc White Christmas, báo hiệu chiến dịch sơ tán công dân Mỹ khỏi Sài Gòn bắt đầu. Chỉ trong vòng 24 tiếng, những người Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam. Hơn một trăm nghìn người Việt Nam làm việc cho chính quyền Việt Nam Cộng hoà được di tản trong đợt này.
Bộ phim Last Days in Vietnam có những cảnh hiếm hoi về tàu khu trục hộ tống USS Kirk tiếp nhận 17 chuyến trực thăng chở người tị nạn Việt Nam. Tàu USS Kirk lúc đó đang đậu gần đảo Côn Sơn. Đạo diễn Rory Kennedy cho biết thêm vê khúc phim này:
Chiếc trực thăng Chinook, chở đầy người Việt Nam và trẻ em không thể hạ cánh vì nó có thể phá huỷ con tàu [USS Kirk]. Vì thế, những người trên trực thăng phải nhảy xuống tàu cách nó nửa mét. Em bé 18 tháng tuổi cũng được thả từ đây.
“Last Days in Vietnam” là phim tài liệu mới nhất của đạo diễn Kennedy, một người trong dòng họ nổi tiếng Kennedy. Ở tuổi 45 tuổi nhưng bà có nhiều duyên nợ với Việt Nam. Bà là cháu của cố tổng thống Mỹ John Kennedy, người ký lệnh đưa những binh sĩ Mỹ đầu tiên tham chiến ở Việt Nam. Bà cũng là người con thứ 11 của cố thượng nghị sĩ Robert Kennedy, người từng đưa ra đề xuất các con đường nhằm chấm dứt chiến tranh Việt Nam vào năm 1968.
Chúng ta không mấy trân trọng những gì xảy ra trong những ngày cuối đó mặc dù nó là một chương quan trọng trong lịch sử Mỹ. Tôi cảm thấy có rất nhiều bài học được rút ra từ thời điểm đó, nhất là trong hoàn cảnh chúng ta rút quân khỏi Iraq và Afghanistan và cũng như việc chống lại lực lượng Hồi giáo ISIS hiện nay.
Nguyễn Sơn Tùng, tuy không phải là một nhân vật trong phim nhưng sau khi biết cuốn phim được dựng lại trong bối cảnh ông cũng là một trong những người có mặt ở thời khắc lịch sử ấy đã viết cho trang web của đài Á châu Tự do những giòng sau đây:
Nửa giờ sau đó căn nhà chỉ huy bốc cháy. Chắc người Mỹ đốt cháy căn nhà và các tài liệu trước khi cuộc di tản kết thúc. Một chiếc trực thăng đáp xuống. Chúng tôi nhốn nháo và muốn ra khỏi xe. Khoảng 10 thuỷ quân lục chiến Mỹ cuối cùng bước lên máy bay, tay cầm súng nhằm chĩa vào xe chúng tôi và nói: “Mọi người ngồi im, chúng tôi trước”. Máy bay cất cánh trong khi lính Mỹ luôn chĩa súng vào chúng tôi.
Là một trong một vài trăm người bị bỏ lại trong cuộc sơ tán của Mỹ ông Sơn Tùng kể:
Nếu cuộc rút lui này xét theo nghĩa tháo chạy thì người Mỹ đã hoàn toàn thành công vì họ đã ra đi bình an vô sự. Nhưng nếu xét theo nghĩa một cuộc di tản thì họ đã thất bại vì họ đã bỏ lại một trăm người gồm phụ nữ, trẻ em rất muốn di tản nhưng không được dù hoàn cảnh vô cùng thuận lợi về thời gian, phương tiện vận chuyển, an ninh hầu như tuyệt đối. Sao người Mỹ có thể tự hào về sức mạnh, lòng nhân đạo, lý tưởng tự do, nhân quyền trong một hoàn cảnh nếu như trên!
Bộ phim tài liệu Last Days in Vietnam đang được trình chiếu ở một số rạp khắp nước Mỹ. Quý thính giả của RFA có thể xem trailer giới thiệu phim trên website của chúng tôi tại www.rfa.org/vietnamese.

***
 

Linh Vũ xem phim “Last Days In VietNam”: Nỗi đau còn đó sau 40 năm!

Cali Today News - Bộ phim tài liệu do nữ đạo diễn Rory Kennedy thực hiện. Rory Kennedy là con gái út của Thượng nghị sĩ Robert Fitzgerald Kennedy và bà Ethel Kennedy, cũng là cháu gọi cố Tổng thống John F. Kennedy bằng bác. Bộ phim đã thực hiện để nói về sự anh hùng của người Mỹ trong những ngày cuối khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản. Phim “ Last Days In Vietnam” đã ra mắt trước đây tại Sundance Film festival vào tháng 1/2014 với nhiều ý kiến và cảm nhận khác nhau về cuộc chiến VN trong nhiều góc cạnh từ chính trị, đời sống văn hóa, bi thương lẫn phẫn nộ, với hồi ức vừa hoảng sợ lẫn tuyệt vọng, và sự tranh đấu giữa sự sống và chết. Nhất là bài học lịch sử khó quên đối với quốc gia Hoa Kỳ trong chiến tranh VN. Bộ phim cũng đã được trình chiếu tại New York vào ngày 05 tháng 9 và sau đó mở rộng đến các thành phố khác trên khắp đất nước trong suốt thời gian còn lại của tháng Chín và tháng Mười. Chúng tôi xin tóm lược nội dung bộ phim tài liệu trước khi đi vào một số chi tiết sau buổi trình chiếu tại Olympia thủ phủ tiểu bang Washington với nhiều cảm nhận khác nhau của nhiều người.

Bộ phim tài liệu “Last Days In Vietnam”: Sản xuất bởi Moxie Firecracker Films, Đạo diễn: Rory Kennedy, Kịch bản: Mark Bailey, Keven McAlester, Nhà sản xuất: Keven McAlester, Rory Kennedy, Sharon Grimberg, Điều hành sản xuất: Mark Samels, Đạo diễn hình ảnh: Joan Churchill, Âm nhạc: Gary Lionelli. Cuốn phim này là loại tài liệu lịch sử của PBS vẫn chưa được trình chiếu trên các kênh truyền hình của Hoa Kỳ. Rory Kennedy tái duyệt lại việc thất thủ hiển nhiên của Saigon trong tài liệu rõ mới này. Đối với nhiều người hỗ trợ cuộc chiến ở VN, sự thất thủ đặc trưng đó nằm trong HĐ Paris 1973 và rồi ngừng bắn sau đó đã không là những cú giáng tệ hại nhất cho hy vọng của họ về một giải pháp hữu hiệu cho chiến cuộc VN. Tệ hơn nữa là sự di tản hỗn loạn và nhục nhã khỏi Saigon khi nó rơi vào tay quân Bắc Việt năm 1975, được giới truyền thông thế giới ghi lại trong sử liệu.
Nội dung bắt đầu từ một thắc mắc của Capt Stuart Herrington quân lực Hoa Kỳ ở Sài Gòn trong ngày cuối khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay CS tháng Tư năm 1975 và trước sự hoảng sợ các quân nhân Hoa Kỳ đã đặt ra câu hỏi : "Who goes and who gets left behind?"Ai đi? Và ai là những người bị bỏ lại phía sau? "
Cuốn phim chỉ thuật lại khoảng thời gian căng thẳng từng giờ trong 24 tiếng đồng hồ cuối cùng của những người Mỹ rời khỏi VN. Thời gian này nằm trong tình thế khó xử của nhà ngoại giao, những người có trách nhiệm từ sĩ quan lẫn binh sĩ Hoa Kỳ trước tình trạng cấp bách phải di tản những công dân Hoa Kỳ, những nhân viên người Việt đã làm cho chính phủ Mỹ và nhất là sự hỗn loạn của người dân, những khó khăn nhất của nhà ngoại giao và những quan chức có trách nhiệm lúc đó, là vừa chấp hành lệnh từ Tòa Bạch Ốc vừa bức xúc với tiếng gọi lương tâm và trách nhiệm của một con người phải làm cách nào để cứu nhiều sinh mạng của Việt Nam. "Ngày cuối cùng của Việt Nam" gồm nhiều cuộc phỏng vấn với các nhân vật chính trị quan trọng như cựu Ngoại trưởng Henry Kissinger, Cố vấn lực lượng đặc biệt Richard Armitage, thư ký báo chí Tòa Bạch Ốc Ronn Nessen, Hải quân Đại Tá Việt Nam Cộng hòa Đỗ Kiểm lúc bấy giờ là Tham mưu Phó Hành quân, Frank Snepp nhà phân tích của CIA, con trai của một phi công Chinook helicopters Nguyễn Văn Ba, Miki Nguyễn và một sinh viên đại học Sài Gòn thời đó ông Bình Phó Đ.v.v . sự thất thủ đặc trưng đó nằm trong HĐ Paris 1973. Từ hình ảnh cũng như các câu trả lời và tường thuật của nhiều người đều có những góc nhìn khác nhau, với thời điểm hôm nay sau 40 năm đối với nhiều người Mỹ ủng hộ cuộc chiến tranh Việt Nam thì cho là sự thất bại mang tính đặc trưng nằm trong Hiệp định ngưng bắn năm 1973 tại Paris. Có thể đây là sự giải bày về sự phản bội của Hoa kỳ trong chiến tranh VN tạo nên sự thất bại ô nhục để miền Nam đã rơi vào tay CS Bắc Việt năm 1975. Hôm nay, đối với những người phản chiến năm xưa có rất nhiều người đã hối hận về hành động tiếp tay với chế độ khát máu của nhân loại như nữ sĩ Ỷ Lan (Anh), Merle Ratner và Nancy Pocock (Canada), tài tử Jane Fonda, Tom Hayden, ca sĩ Joan Bayer và Janis Joplin, cựu binh John Kerry và Rusty Sachs .v.v. Tuy nhiên bộ phim vẫn nêu cao sự anh hùng của người Mỹ trong thời gian đó. "Ngày cuối ở Việt Nam" không chỉ là một câu chuyện về những người anh hùng, nhưng nó nhắm trên một quy mô rộng lớn hơn nhiều. Nó cũng nói về chính sách đối ngoại đối với đồng minh Hoa Kỳ, miền Nam Việt Nam, từ một quan điểm đạo đức. Trên một quan điểm đó Đạo diễn Rory Kennedy cũng nghĩ rằng “Ngay cả khi thất trận, người ta cũng có thể trở thành anh hùng, nếu tìm cách cứu giúp kẻ khác, cứu giúp sinh mạng của kẻ khác”. Một điều mà chúng ta ngạc nhiên là sau 40 năm chiến tranh VN đã được mở lại bằng những thước phim bởi Rory Kennedy, để nhìn lại, để xét lại trường hợp sụp đổ của Sài Gòn với một số tài liệu làm kinh nghiệm cho Hoa kỳ, Rory Kennedy muốn nhìn lại những tình huống đằng sau sự thất thủ của Saigon trong tài liệu mới dành cho American Experience, loạt sử liệu đồ sộ của đài PBS. Tinh tế, sắc xảo và có lúc vừa thương tâm vừa hứng thú, cuốn phim cho thấy tiềm năng hòa giải trước xấp xỉ 40 năm sau cuộc triệt thoái cuối cùng của Mỹ và có lẽ sẽ được chiếu lại thường xuyên trên màn ảnh và các đài digital.
Theo cá nhân tôi thì chủ đích ra đời bộ phim tài liệu với hướng đi chính trị nhiều hơn và sự hóa giải sau 40 năm vết thương vẫn chưa lành của cả hai dân tộc với thực tế cũng như cả sự thất bại và nỗi đau vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Bộ phim đã nói lại sự việc của năm 1973 với hiệp ước ngừng bắn của chính quyền Nixon với CS Bắc Việt, đã dọn đường cho việc rút quân tham chiến Mỹ ra khỏi miền Nam VN. Sau khi Tổng thống Nixon bị sì­căng­đan trong vụ bê bối Watergate buộc phải từ chức năm 1974, CS Bắc Việt bắt đầu tấn công mạnh mẽ vào miền nam VN trong khi VNCH không còn sự hỗ trợ của Hoa kỳ để có thể đẩy lùi quân Bắc Việt. Thừa cơ hội Quân Lực VNCH mất điểm tựa, quân đội miền Bắc ồ ạc tiến về phía Sài Gòn, trong thời điểm này các quan chức Mỹ bắt đầu xem xét sự lựa chọn của họ để trấn an các nhân viên chính phủ và dân sự còn lại trong xứ. Tại Washington, Tổng Thống Gerald Ford khẩn cầu Quốc hội cung cấp một số ngân quỹ thích hợp để tái phối trí người Mỹ và có đến 200.000 cộng sự viên miền Nam Việt Nam và gia đình họ, nhưng các chính trị gia Mỹ từ chối thông qua dự luật, trong đó có Nghị sĩ Joe Biden, hiện giờ là Phó Tổng Thống. 
Đại sứ Mỹ tại miền Nam Việt Nam ông Graham Martin đã từ chối cuộc di tản chính thức dự trù, ngay cả khi dân số tị nạn ở Saigon tăng lên đến gần cả triệu. Do hậu quả đó, viên chức chính phủ Mỹ các ngành bắt đầu kín đáo tổ chức các cuộc di tản không chính thức cư dân Nam VN ra hải ngoại; nhiều người trong số đó là quân cán chính của chính quyền miền nam; mặc dù họ biết đã vi phạm luật Hoa­kỳ khiến có thể bị buộc tội phản quốc. Trong số những hành động can trường ít ai biết này có Đại úy lục quân Stuart Herrington và các sĩ quan khác đã giúp đưa người tỵ nạn trái phép lên các xe tải quân sự đến căn cứ không quân Hoa­kỳ bên ngoài Saigon và chuyển họ bằng các phương tiện vận tải bay đi Philippines. Ông Joseph McBride của bộ Ngoại giao đã đi lại bằng xe van của tòa đại sứ quanh thành phố rước những cộng sự viên quan trọng và bỏ họ xuống các bến cảng của sông Saigon để đáp tàu rời xứ sở. Viên sĩ quan hải quân Nam VN Dam Pham kể lại: "Có hỗn loạn ở Saigon lúc đó".
Trong khoảng thời gian 24 tiếng để hành động theo lệnh khẩn cấp, trong phim cũng nói lên những hành vi, lương tâm và lòng dũng cảm của những người có thẩm quyền trong lúc đó như Đại Úy Stuart Herrington nhân vật đóng vai trò trọng yếu trong bộ phim tài liệu “Last Days In VN”) được Ngũ Giác Đài gởi đến giúp ngăn ngừa tàu Mỹ rơi vào tay kẻ thù. Trong bộ phim tài liệu này có cựu giới chức Bộ Quốc phòng Richard Armitage, người đã lên kế hoạch với Hải quân Đại tá Việt nam Cộng Hòa Đỗ Kiểm, lúc bấy giờ là Tham mưu Phó Hành quân có trách vụ điều hành và theo dõi các hoạt động của các chiến hạm, để bí mật thực hiện một chương trình di tản tổng quát để đưa hơn 30.000 người tỵ nạn rời khỏi Việt Nam. Ông Đỗ Kiểm đã hồi tưởng lại những gì đã chứng kiến ông nói: "đôi khi bạn phải vi phạm luật để theo lương tâm".
Ông Richad Armitage không chấp nhận thực tế phũ phàng là Saigòn có khả năng sụp đổ, do đó ông đã hoãn lại cho tới phút chót những sự chuẩn bị để di tản những người còn lại ở Sài Gòn. Sự lựa chọn duy nhất trong thời điểm đó là phương tiện máy bay trực thăng không vận, phải thi thành nhiệm vụ trong vòng 24 giờ để hoàn thành cuộc di tản số người sau cùng ra tàu sân bay đang neo ngoài khơi bờ biển. Bắt đầu từ ngày 29/4/1975, Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford đã chính thức ra lệnh khởi động chương trình "Frequent Wind" để di tản quân nhân, nhân viên dân sự Hoa Kỳ và một số người Việt đã từng cộng tác hay có liên hệ với chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ VNCH để rời khỏi Việt Nam. Trên nguyên tắc chương trình Frequent Wind chỉ kéo dài từ 3 giờ 30 chiều ngày 29 tháng 4 đến đúng 21 giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975 là chấm dứt và trụ sở của Sở Tùy viên Quốc phòng (Defence Attaches Office, DAO) của Hoa Kỳ sẽ được Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ phá nổ trước khi ra đi. Ngoại trưởng Kissinger ra lệnh cho Tòa đại sứ Mỹ phải kết thúc việc di tản vào lúc 3 giờ 45 sáng, giờ Sài Gòn và Đại sứ Martin phải ra đi trên chuyến trực thăng trước chuyến bay cuối cùng. Tuy nhiên đến 3 giờ 45 sáng, vẫn còn có trên 400 người tại toà đại sứ Mỹ trong đó có cả Đại sứ Martin. Cho đến 4 giờ 20 sáng, Đô Đốc Gayler đã quyết định kết thúc cuộc di tản. Tuy nhiên cuộc di tản vẫn tiếp tục cho đến đúng 7 giờ 53 phút sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì chiếc trực thăng CH­46 cuối cùng mới rời khỏi sân thượng của toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn mang theo Trung sĩ Juan Valdez, người lính Mỹ và cũng là người Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam.
Cuộc di tản kéo dài hơn 18 giờ không ngừng nghỉ với 75 trực thăng của lực lượng Hải Quân Hoa Kỳ thay phiên nhau chở người di tản. Khi chuyến bay sau cùng đáp lên khu trục USS Kirk thì tại Đại Sứ Quán Sài Gòn vẫn còn rất đông người bị bỏ lại. Với 2,000 người Việt chen chúc trong khuôn viên tòa đại sứ và phần lớn các phương tiện khác bị cắt đứt, lựa chọn duy nhất còn lại là vận tải bằng trực thăng vốn dĩ chỉ còn 24 giờ để hoàn tất. Bất kể những thành tựu kinh ngạc này, hàng chục ngàn hợp tác viên của Mỹ đã không có cơ hội thoát thân và nhiều người sau đó đã bị bắt giữ hoặc bị hành quyết vì đã hỗ trợ quân Mỹ. Những kẻ thiếu ảnh hưởng hay phương tiện để di tản biết rằng những kẻ may mắn hơn hay có quan hệ tốt hơn họ đã được vớt an toàn ra hải ngoại trong khi họ bị bỏ lại để đối diện với sự khủng bố của chế độ cộng sản. Trong bộ phim có hai nhân vật là nhân chứng được phỏng vấn đó là Sinh viên Bình Phó Đ và sĩ quan Phạm của HQ Nam VN là hai trong những trường hợp bị bỏ lại, họ đã bị tập trung trong các trại "cải tạo" vì họ đã tìm đường đến Mỹ và hôm nay họ đang sinh sống tại Hoa Kỳ. Herrington nhắc lại việc rút lui sau cùng vốn ảnh hưởng đến việc bỏ rơi các chiến hữu người Việt: "Thật là một sự phản bội sâu đậm!"
Trong đoạn phim còn mô tả sự phi thường của các Phi công VNCH vận chuyển người tị nạn đáp lên tàu USS Kirk và ánh mắt nhìn theo trong niềm đau xót khi những máy bay trực thăng bị đẩy xuống lòng biển sâu để nhường chỗ cho các chuyến bay khác đến.v.v. Bộ phim còn nói lên sự đau thương, khổ cực, xác xơ của những người di tản trên các bon tàu, cảnh hải hùng đầy kinh ngạc để chọn lựa giữa sự sống và chết trong mọi tình huống. Cảnh trẻ em đàn bà ngơ ngác run sợ trước hoàn cảnh nguy hiểm, một vài nụ cười quá héo hắt chợt thoáng trên môi để tỏ lòng cám ơn khi được cứu vớt.v.v. tất cả được ghi lại trong những hình ảnh ngắn gọn nhưng chúng ta cũng có thể đọc được đó là hình ảnh ngày đại tang của dân tộc. Bộ phim được kết thúc với vụ đánh bom vào ban đêm của căn cứ không quân Mỹ bên ngoài Sài Gòn, tiếng nổ long trời của đạn pháo, khói lửa ngút trời trong đêm tối nói lên sự đổ nát, nỗi tuyệt vọng mà những kẻ tỵ nạn đã đối diện vào những giờ phút cuối thất thủ của thành phố và sự cáo chung của chính phủ VNCH trong danh nghĩa Đồng Minh là Tiền Đồn Chống Cộng.
Trong bộ phim với sự lựa chọn các đối tượng phỏng vấn của Rory Kennedy cũng không kém phần quan trọng và sâu sắc, trong đó có nhiều nhân vật còn sống sót của Đại sứ quán và các đối tác trọng yếu miền Nam Việt Nam. Tin tức trong bộ phim với tài liệu lưu trữ cá nhân và những thu thập đặc biệt khá khúc chiết tạo bố cục rất linh hoạt bởi chuyên viên Mark Bailey và Keven McAlester, cũng như sự lắp ráp tài tình bởi Don Kleszy. Nhất là nhạc nền do Gary Lionelli sáng tác góp phần làm tăng cảm xúc cho khán giả theo dõi bộ phim tài liệu, gợi nhớ giai đoạn lịch sử đau thương này.
Trong một thời kỳ lịch sử Hoa­kỳ vốn được tái duyệt và chỉ trích; ngừng lại ở chỗ kết thúc chiến cuộc VN, sự xoay sở của Kennedy trong việc thu thập những tài liệu mới mẻ và những cuộc phỏng vấn bộc trực đầy ấn tượng đã tồn tại như một thành tựu gây xúc cảm độc đáo.
Phần cuối chương trình là sự phát biểu cảm tưởng và ý nghĩ của mọi người tham dự sau khi xem đoạn phim dài 1 tiếng 30 phút. Dĩ nhiên là trong mỗi người Việt lẫn người Mỹ đều mang một hồi ức khó quên về cuộc chiến VN. Mọi người đều rơi lệ khi nói lên cảm tưởng và suy nghĩ của mình, sự đau thương đã hiện rõ trên từng ánh mắt, lời nói với sự nghẹn ngào khi nhớ về dĩ vãng. Bộ phim đã mang mọi người về lại đoạn đường đau thương gần 40 năm của dân tộc VN, đồng thời cũng vẽ lại một đoạn đường đen tối của lịch sử Hoa Kỳ. Có người cho rằng trong những cuộc phỏng vấn những nhân vật có ảnh hưởng trong cuộc chiến họ không nói lên sự thật và lý do bỏ rơi miền Nam VN như cựu Bộ trưởng Ngoại giao Henry Kissinger đã không thẳng thắn trả lời những thắc mắc về những vấn đề liên quan, mà dường như “chỉ đọc lại một câu trả lời đã soạn sẵn”. Kissinger cùng cha đẻ ra Hiệp Định Hòa Bình Ba Lê 1973 dù biết rõ rằng Lê đức Thọ chẳng bao giờ công nhận cái Hiệp Định đó, nhưng cũng ép buộc VNCH phải ký vào Hiệp Định đó bằng những lời đe dọa và bằng lời hứa suông với VNCH.
Có người cho rằng đoạn phim tài liệu này chỉ thuật lại những căng thẳng từng giờ trong 24 giờ cuối cùng của những người Mỹ còn lại tại Việt Nam, bộ phim dài 1 giờ 30 phút không thể thay đổi được lịch sử. Theo nhận xét của nhiều người thì ba nhân vật TT Kennedy cũng có lỗi, TT Johnson cũng bị sai lầm, nhưng TT Nixon và Ngoại trưởng Kissinger là sai lầm lớn nhất trong cuộc chiến VN.
Và giờ đây gần bốn mươi năm sau chiến tranh VN Hoa Kỳ vẫn chưa rõ ràng trong chính sách ngoại giao của họ và không có một chiến lược xác định rõ ràng trong cuộc chiến như ở Iraq và Afghanistan. Bà Rory Kennedy nói rằng: Lịch sử có thể không lặp lại chính nó, nhưng chắc chắn nó vang vọng. Cho nên bộ phim này có thể cao hơn là một tài liệu lịch sử, là cuộc sống và những điều chúng ta quan tâm hôm nay.
Chúng ta nhìn thấy chiếc trực thăng vận đáp trên sàn tàu USS Kirk chính là lúc Hoa Kỳ đã chấm dứt cuộc chiến tại VN, nhưng họ có hiểu rằng chính họ đã mở ra một chương mới cho kẻ ở lại. Tóm lại “Last Days In VN” của Rory Kennedy được phối hợp các hình ảnh quí giá, những hình ảnh khó quên của Sài Gòn vào tháng 4 năm1975, những hệ quả của các cuộc biểu tình chống chiến tranh VN tại Hoa Kỳ. Một bức tranh lịch sử vinh nhục, đau thương, máu và nước mắt của cả hai dân tộc sẽ không bao giờ quên được, cho dù cộng đồng người Việt đã được người Mỹ cưu mang sống trong tự do, hạnh phúc hay Hoa Kỳ có viết hàng trăm hồi ký, hàng ngàn lý do, hàng chục thước phim để giải bày thì vết bầm lịch sử khi bức màn sắt rơi xuống thành phố Sài Gòn sẽ không bao giờ tẩy xóa được. Theo các nhà chính trị phương Tây cho rằng sự sụp đổ của VNCH hay sự chiến thắng của CSVN tháng 4 /1975 đều từ sự phản bội của Hoa Kỳ với đồng minh. Buổi trình chiếu phim “Last Days In Vietnam” chấm dứt lúc 3 giờ chiều cùng ngày. Mọi người ra về mang theo nỗi đau của dĩ vãng, niềm chua xót cho dân tộc Việt sau gần 40 năm chiến tranh chấm dứt.
Last Days in VN from VongNgayXanh on Vimeo.
***
Phạm Kim (NVTB)


Xem Phim: ‘Last Days in Vietnam’: Những ngày cuối cùng ở Việt Nam.

Nhà sản xuất: Rory Kennedy; kịch bản/ câu chuyện: Mark Bailey và Keven McAlester; Giám đốc hình ảnh: Joan Churchill; biên tập: Don Kleszy; Giám đốc âm nhạc: Gary Lionelli; Giám đốc sản xuất: Rory Kennedy và McAlester; Phát hành: American Experience Films/PBS. Phim dài: 98 phút.

“Ngày cuối cùng ở Việt Nam”, , tiêu đề của cuốn phim tài liệu của Rory Kennedy mở ra cho mọi người (đặc biệt là người Mỹ) một lần nhìn lại cái ngày SàiGòn mất vào cuối tháng 4 năm 1975: Cuộc ra đi của ông Đại Sứ Mỹ và những người lính TQLC Mỹ cuối cùng bảo vệ Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn.
Hình ảnh nổi bật trên các trang báo Trong buổi chiếu thử ở Rainier Center,Seattle, vào thứ Bảy, Sept 06/ 2014 http://hoiquanphidung.com/upload/img...1410978188.jpg
Hình ảnh phi công Nguyễn Văn Ba CH-47 Chinook sau khi thả thân nhân và gia đình xuống chiến hạm Kirk, đã cho rơi máy bay xuống biển và lội nước để được cứu thoát lên chiến hạm. (ảnh: Craig Compiano.) http://hoiquanphidung.com/upload/img...1410975265.jpg
Cựu phi công L19 Lý Bửng trước viện bảo tàng Hải Quân Florida

Hình ảnh mọi người đồng loạt đứng dậy hát Quốc Ca VNCH sau khi hình ảnh cuối cùng của phim chấm dứt. (Photos: NVTB News).
http://hoiquanphidung.com/upload/img...1410975354.jpg
Cuốn phim đánh dấu đậm nét những nhận định, những mặc cảm qua mối ân hận lâu dài vì “thua trận hay bỏ rơi, rút quân” của chính giới Mỹ mà nhiều cựu chiến binh HK luôn cảm thấy như bị bỏ rơi và bị đánh giá sai lạc, khi trở về đời sống thường nhật. Nó là câu chuyện đã diễn ra đầy cảm xúc về ngày triệt thoái đau buồn, chứ không hẳn là muốn bênh vực cho một đảng nào (Cộng Hòa- Dân Chủ) của chính giới Mỹ. Nhưng đồng thời, hơn tất cả, đây là cuốn phim tích cực nói lên bằng hành động, tình đồng minh ở vào giờ phút cuối cùng của cuộc chiến mà những chiến sĩ VNCH cũng như những người bạn Mỹ đã hợp tác chiến đấu đầy dũng cảm: Hình ảnh của cố Đại Sứ Martin cùng những toán TQLC Mỹ cố gắng giúp nhiều người được rời khỏi Sài Gòn. Hoa Kỳ đã cố gắng làm hết mình trong các cuộc triệt thoái. Câu chuyện được gây sôi nổi lúc này, trong sự kiện rút khỏi Iraq và Afghanistan…
Đó là những người có liên hệ chặt chẽ với Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ bao gồm cả một số tướng tá QLVNCH và khoảng 2500 người Việt lọt vào cổng (trong số này có nhân chứng Phó Bình góp mặt trong phim) để chờ được ra đi và có trên 80 lượt trực thăng bốc từng toán người đáp xuống chiến hạm Kirk lúc đó đang chờ ở ngoài khơi không xa Sài Gòn. Lúc bấy giờ những người đã ngồi chờ quanh hồ bơi bên trong Toà Đại Sứ luôn được nghe câu trấn an: Chúng tôi hứa sẽ mang mọi người ra đi được, đây (Toà Đại Sứ) là lãnh thổ” của Mỹ mọi người được bảo đảm. Nhưng rồi vẫn còn nhiều người từng chờ trong Tòa Đại Sứ bị bỏ lại, như văn bản Hòa Đàm Ba Lê cũng không được bảo đảm…
Cuốn phim này cũng nêu rõ rằng: CSVN đã không tôn trọng việc thi hành những điều khoản của hiệp định Hoà Đàm Ba Lê mà họ đã ký kết. Cũng như nguyên TT Nixon không có khả năng thực hiện những lời cam kết bảo vệ chế độ VNCH. Hòa Đàm Ba Lê không được tôn trọng, hình ảnh Mồ Chôn Tập Thể Huế, cho đến các cuộc tàn sát tiếp diễn sau 1973 cho đến 1975…

Ngòai ra, cuốn phim còn bao gồm 27 người trả lời phỏng vấn. Họ là những cựu chiến binh TQLC Mỹ canh giữ Tòa Đại Sứ đã phát biểu một cách thiết tha trong nỗ lực mang thêm những người Việt đã lọt vào Tòa Đại Sứ. Đó là tiếng nói của Henry A. Kissinger,ngoại trưởng kiêm cố vấn an ninh quốc gia vào thời điểm đó; cùng Richard L. Armitage,viên chức lúc ấy có nhiều liên hệ với HQ-VNCH, ông nguyên là Thứ Trưởng Ngoại giao trong chính quyền của George W. Bush, một nhân vật mà giới cựu viên chức và quân nhân VNCH tị nạn vùng Hoa Thịnh Đốn rất “quen mặt”.

Những người Việt tham gia trả lời cuộc phỏng vấn này gồm cựu HQ Đại Tá Đỗ Kiểm, Trung Úy Phạm Hữu Đàm (sinh năm 1944), cựu Sinh viên Phó Bình tìm đường ra đi từ Tòa Đại Sứ nhưng bị kẹt lại, và anh Miki Nguyễn ( cư ngụ tại Seattle) con trai của cựu sĩ quan KQ lái CH-47 Chinook,Nguyễn Văn Ba.
Tiếc rằng một nhân vật còn để lại những mến tiếc là cố đại sứ Mỹ Graham Martin, người đã qua đời vào năm 1990 không còn cơ hội lên tiếng nữa và nhiều người tị nạn, tướng lãnh VNCH. Về phía Hải Quân ngoài HQ Đại Tá Đỗ Kiểm rất được biết trong vai trò Hành Quân, còn phải nhớ đến các vị tướng HQ biết nhiều về ngày cuối cùng như: Cựu Đề Đốc Trần Văn Chơn, Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng, Đinh Mạnh Hùng, Đại Tá Lê Hữu Dõng, Đại Tá Nguyễn Văn Tấn… các tướng lãnh ở quanh SàiGòn và các vị bộ trưởng trong chính phủ VNCH, như Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng và các chiến sĩ thuộc Không Quân như Thiếu Tá Lý Bửng (Florida) , Sĩ Quan chỉ huy Binh Chủng Nhảy Dù như cựu Trung Tá Trần Đăng Khôi, cựu Trung Tá Bùi Quyền, hoặc các cấp chỉ huy binh chủng Thủy Quân Lục Chiến và rất nhiều người Việt Tị Nạn tiêu biểu khác đã không có dịp lên tiếng nói… trong một cột mốc lịch sử này.

Nhà sản xuất phim, Rory Kennedy, là cháu của cố Tổng Thống John F. Kennedy, người tăng cao cường độ tham chiến của Mỹ vào Việt Nam,là con gái của nguyên Tổng Trưởng Tư Pháp Robert F. Kennedy. Vốn bị mù mờ vì những sai lạc về lịch sử cuộc chiến Việt Nam, qua nội dung của cuốn phim này, Rory Kennedy được xem như người sau cuộc chiến đã đam mê tò mò tìm kiếm ra được nhiều tài liệu quý giá cũ để có thể hy vọng cống hiến niềm và sự cảm thông ngưỡng mộ của khán thính giả nhiều bên nhiều phía trái ngược hẳn nhau, bằng những hình ảnh thực.

Chắc chắn cũng phải có nhiều thiếu sót chứ?
Là một phim tài liệu dài 1 giờ rưỡi, “Last Days In VietNam” gồm những hình ảnh sống thực riêng vài ngày cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam thì rõ rệt là không đủ những chứng liệu nói lên được yếu tố công bằng đối với quân dân VNCH, cũng như quyết định tham chiến và triệt thoái của người Mỹ tại VN.
Cuốn phim này chỉ mang lại được một điểm linh động cần soi sáng cuối cùng về tình người trong một giai đoạn lịch sử tăm tối của nước Mỹ thời chiến tranh Việt Nam.
Những thiếu sót đuơng nhiên trong phim “Những ngày cuối cùng ở Việt Nam” do đó cũng không làm giảm bớt giá trị và ý nghĩa cao đẹp đã hoàn thành của cô đạo diễn Kennedy. Theo lời một khán giả, một người trẻ trong ban chấp hành CĐNVQG tin rằng "bà là người thuộc thành phần đảng Dân Chủ Mỹ, nói không rành tiếng Việt.. và trong phim này, chủ ý của bà cũng không thiên vị gì CSVN…Trách nhiệm bổ sung hoặc làm sáng tỏ chính nghĩa của người Quốc Gia dĩ nhiên mãi mãi vẫn là sự quan tâm cần thiết trước hết cần phải cất lên tiếng nói của khối người gốc Việt Tị Nạn ở Mỹ và cộng đồng người gốc Việt Tị Nạn nói chung."


Đây cũng không phải là một câu chuyện trên phim ảnh để đưa ra một kết thúc nào mà có thể giúp quên đi những dấu vết thương đau ở những người thuộc chế độ VNCH bị thất thủ ở Miền Nam Việt Nam, nhưng ít nhất nó đã chính thức xác nhận tính cách tàn nhẫn của những kẻ bội ước, không tôn trọng Hiệp Định Ba Lê mà chính họ đã ký kết. Nó ít nhất đã trưng bày một thảm kịch lịch sử mang nhiều tính thuyết phục, như là một đóng góp trung thực cho một trang sử đáng nhớ, cho những thế hệ tương lai hiểu đúng đắn hơn khi muốn nhìn lại diễn tiến sử cận đại.

Nhưng với sự xuất hiện của cuốn phim tài liệu này như gián tiếp nhắc nhớ người công dân Mỹ gốc Việt, đặc biệt là gốc Việt tị nạn, cần phải chính thức phát biểu tiếng nói của mình, cần phải có thêm nhiều đóng góp tích cực trên mọi phương diện truyền thông, văn học nghệ thuật, phim ảnh…về cuộc chiến Việt Nam.
Những ý kiến tiêu biểu, và điểm nổi bật trong buổi Chiếu Ra Mắt tại Seattle:

Ghi nhận Ưu điểm 1- Phần hát quốc ca của mọi người xem phim cùng đồng loạt đứng dậy hát trọn vẹn “Quốc Ca Việt Nam Cộng Hoà” đầy xúc động, rướm lệ… cùng với Thanh Tân, người điều hợp của buổi trình chiếu “Screening” thành công tốt đẹp trước một số khán giả, báo chí chọn lọc, hạn chế…
Ghi nhận Ưu điểm 2- “Cuộc giải toả Toà Đại Sứ Hoa Kỳ toàn hảo, với sự hợp tác của quân nhân các cấp VNCH, hình ảnh Người Việt Nam tìm mọi cách tìm cách thoát thân chính là họ “đã bỏ phiếu bằng chân”- “xa lánh, trốn chạy khỏi Cộng Sản” được lớp lang phơi bày trên khắp thế giới. Toàn bộ cuốn phim rất cảm động, nói lên sự tốt đẹp nỗ lực của HK và tinh thần khao khát tự do, dũng cảm của VNCH…”, theo lời Cựu SVSQ Võ Bị Đà Lạt Trần Sinh Duyên.
Điểm ghi nhận nổi bật 3- “Vai trò lá phiếu tại Hoa Kỳ rất quan trọng, để quyết định chánh sách… Điển hình dù chính phủ HK muốn cứu vãn VNCH, nhưng dân phản chiến và lá phiếu của một số lớn dân cử đã buộc HK phải triệt thoái khỏi Miền Nam. Bài học này áp dụng cho người công dân Mỹ gốc Việt ngày nay…” , lời một tham dự viên: ” hiểu được vai trò lá phiếu bầu cử quan trọng trong việc áp dụng chính sách của HK đối với các quốc gia, các cộng đồng các sắc dân…”
Điểm ghi nhận nổi bật 4- Theo ý kiến của một tham dự viên trẻ, anh Phạm Trọng cho thấy bạn trẻ: ” cần học ở quá khứ lịch sử, từ phim ảnh trước đây và “Last Days in Vietnam” cho thấy lịch trình triệt thoát khỏi VN đã có sự thỏa thuận giữa HK và CS Bắc Việt. Tuy nhiên điểm son của cuốn phim là không có lời phát biểu hoặc đóng góp nào của phía Cộng Sản Bắc Việt đã chiếm được Sài Gòn và toàn bộ miền Nam.”
Điểm ghi nhận 5- Ý Kiến của một cựu chiến binh thuộc Binh Chủng Nhảy Dù, anh Tư Nguyễn “Tôi buồn muốn khóc, bỏ về, vì “mình đi tìm lại các chiến hữu Nhảy Dù của Lữ Đoàn 3 và 4 được trải mỏng, bao vùng bảo vệ sự an toàn của Sài Gòn, để cho người Mỹ và nhiều người được ra đi an ổn tìm tự do, đào thoát khỏi bàn tay CS.- Cuốn phim này chú trọng chính tới Toà Đại Sứ và một phần di tản bằng Tàu HQ Việt Nam…
Rất nhiều hình ảnh hào hùng,nhiều tiếng nói tiêu biểu có cân lượng, giá trị lịch sử, thiết nghĩ không thể thiếu- không tìm thấy được qua 98 phút của cuốn phim.”

Điểm ghi nhận 6- Hai đài truyền hình và vài tờ báo lớn Mỹ đã ca ngợi cuốn phim nói lên sự anh hùng của HK và VNCH. Một tờ báo Mỹ khác đánh giá cuốn phim xứng đáng được trao giải Oscar phim tài liệu cho “Last Days in Vietnam”.
Lịch Trình chiếu Phim được thông báo tại: New York, Washington DC, Boston, LA, Philasdelphia, San Francisco, Berkeley, San Rafael, San Jose, San Diego, Irvine (CA), Chicago, Denver, Minneapolis , Phoenix , Atlanta Seattle.
Ý kiến của CSVSQ Trần Sinh Duyên K30 / TVBQGVN
Cuốn phim được bắt đầu từ Hiệp định Ba Lê năm 1973 cho đến chiếc trực thăng cuối cùng chở những người lính Mỹ canh gác Tòa Đại Sứ rời khỏi Sài gòn.
Sau khi quân đội Mỹ đã rút về nước và cúp viện trợ do ảnh hưởng của thành phần phản chiến Mỹ áp lực lên Quốc Hội năm 1973, Cộng Sản Bắc Việt đã phản bội lại những gì đã ký và tiến chiếm miền Nam. Cuốn phim cũng cho thấy sự tàn ác của Cộng Sản Bắc Việt qua hình ảnh của những mồ chôn tập thể.
Cuốn phim tập trung vào những giờ phút hổn loạn cuối cùng của cuộc chiến, cho thấy sự hy sinh của những người lính Mỹ cho nhân dân Việt Nam, ngay cả Đại Sứ Mỹ tại Sài gòn cũng từ chối lên trực thăng rút đi, mà nhường sự ưu tiên đó lại cho dân Việt Nam, cho đến khi xe tăng của Việt Cộng vào đến Sài gòn thì chiếc trực thăng cuối cùng chở những người lính gác Mỹ mới cất cánh.

Hầu hết những người Việt Nam ở Mỹ hay những vùng đất tự do khác đều là người tị nạn Cộng Sản, đã từng trốn chạy khỏi Việt Nam bằng mọi cách. Điều này chứng tỏ cho thế giới thấy nguyện vọng của dân tộc Việt Nam qua cuộc bỏ phiếu bằng chân, tìm mọi cách chạy trốn khỏi ách thống trị tàn ác của Đảng Cộng Sản. Chúng ta mong mỏi chính quyền địa phương thấy được những hình ảnh trong cuốn phim này, mà có những quyết định có lợi cho Cộng Đồng Tị Nạn hơn là làm lợi cho chế độ độc tài Cộng Sản, để không phải hối tiếc về những gì đã không thể làm được để giúp cho dân tộc Việt Nam, như những người Mỹ trong phim.

Qua bài học từ quá khứ đau buồn trong phim, chúng ta cũng thấy lá phiếu của người dân ở những quốc gia dân chủ rất mạnh và quyết định tất cả, ngay cả Tổng Thống cũng không thể làm gì khác hơn được, nên chúng ta phải biết tận dụng sức mạnh đó của chúng ta qua những lá phiếu, cho những việc có lợi ích cho Cộng Đồng Tị Nạn tại địa phương mình cư ngụ, hơn là làm lợi cho Cộng Sản. ( Kỹ Sư Quận Hạt Snohomish-WA: Trần Sinh Duyên)
Ý kiến của quân nhân Nhẩy Dù nói về phim “Những ngày Cuối Cùng ở Việt Nam”
Nếu phim nầy có điểm thêm chi tiết về quân lực VNCH thì hay biết bao: Trong đó có lực lượng Tổng Trừ Bị , Địa Phương Quân , Nghĩa Quân … ngăn chận bước tiến quân của cộng sản tôi muốn nói tầm pháo 130 ly của cộng sản (khoảng 30 km) thì cuộc di tản không hoàn toàn tốt đẹp như thế đâu … Tôi là một người lính Nhẩy Dù sống chết cho đến ngày 30-4-75, cùng đồng đội trong Lữ Đoàn 3 & Lữ Đoàn 4 mà chủ yếu là Lữ Đoàn 3 vì là Lữ Đoàn chủ lực đã giúp Sài Gòn những giây phút cuối cùng tham chiến mặt trận Thường Đức (Đà Nẵng) rồi mặt trận Khánh Dương (Huấn Khu Dục Mỹ- Nha Trang ) Rồi về phi trường Thành Sơn (Phan Rang) sau đó Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù ra thay mới về Sài Gòn … Còn Lữ Đoàn 4 thì mới thành lập … Trong những giao tranh dũng cảm và bảo vệ vòng đai Sài Gòn, không thể quên được sự điều động của Trung Tá Trần Đăng Khôi Lữ Đoàn trưởng và Trung Tá Bùi Quyền, Lữ Đoàn phó Nhẩy Dù đã đóng góp phần bảo vệ an ninh cho những ngày cuối cùng của Sài Gòn (Chiến sĩ Nhẩy Dù Nguyễn Tư)
Ý kiến cựu Sĩ Quan Phi hành nói về “chiếc L-19 của Thiếu Tá Lý Bửng đáp trên Hàng Không Mẫu Hạm Mid-Way “
Nếu phim nầy có điểm nói về chiếc Chinook của Sĩ Quan phi Hành Nguyễn Văn Ba, thì cũng không thể quên cựu Thiếu Tá Lý Bửng cựu sĩ quan hoa tiêu phi đoàn 114 , người đã đáp an toàn trên sàn bay Hàng Không Mẫu Hạm, mang tính vô tiền khoáng hậu trong lịch sử. Hiện chiếc máy bay này đã được trưng bày trong Bảo Tàng viện tại Hoa Kỳ. Khi chiếc L-19 của Thiếu Tá Lý Bửng không thể liên lạc bằng vô tuyến ông đá quăng chiếc giầy xuống sàn tầy cho biết tình trạng cần đáp (có mang theo vợ và 5 con). Đây là lần đầu tiên một máy bay cánh quạt đáp an toàn. Lòng dũng cảm vượt chết đã nói lên ý chí phi thường yêu chuộng tự do, hành động trong khả năng sinh tồn. (Cựu sĩ quan Phi Hành Phi Quang Quý cùng đơn vị với cựu Thiếu Tá Lý Bửng)
http://community.vietfun.com/showthread.php?t=1099521 
*
  *   * 
Phim ‘Những ngày cuối ở Việt Nam’ 
Anders Wright | Trà Mi lược dịch
Cuộn phim tài liệu mới, ‘Những ngày cuối ở Việt Nam’, do Rory Kennedy đạo diễn và sản xuất, kể lại các sự kiện bi thảm quanh việc di tản quân sự cuối tháng 4, 1975 tại Sài Gòn – chiến dịc sau cùng của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam tên là Frequent Winds.
Hình của American Experience/Hugh Doyle/AP chụp cảnh chiếc trực thăng Chinook thả người xuống Khu trục hạm USS Kirk ngày 29 tháng 4 1975 theo tín hiệu trên tàu.
Hình của American Experience/Hugh Doyle/AP chụp cảnh chiếc trực thăng Chinook thả người xuống Khu trục hạm USS Kirk ngày 29 tháng 4 1975 theo tín hiệu trên tàu.
Cuộn phim ‘Những ngày cuối ở Việt Nam’ đã bắt đầu trình ciếu vào thứ sáu Tháng 5, tháng 9, 2014
Mặc dù nói về những khoảnh khắc cuối cùng của một cuộc chiến đã kết thúc gần bốn mươi năm trước đây, ‘Những ngày cuối ở Việt Nam’, cuộn phim tài liệu mới của Rory Kennedy, dường như rất hợp thời. Chiến tranh Việt Nam đã định hình văn hóa cũng như nền chính trị và chính sách đối ngoại của Mỹ trong nhiều chục năm qua, và nước Mỹ của chúng ta là một quốc gia khủng hoảng trong chiến tranh và một khoảng thời gian dài sau đó.
Sự gia tăng hiện nay của những cuộc xung đột trên toàn cầu đang gợi nhớ lại tác động cuộc chiến Việt Nam đã ảnh hưởng không chỉ đến đất nước của chúng ta, mà còn với cả cộng đồng quốc tế. Thật dễ để nhìn vào những xung đột, bạo lực và đau thương trên thế giới và cảm thấy như thể đó là những điều quá lớn để người ta có thể hiểu được, nhưng Kennedy – con gái út của Thượng nghị sĩ Robert Kennedy – thành công bằng cách dùng những sự kiện áp đảo đó để đưa khán giả vào những tình cảnh rất cá nhân.
Kennedy, sinh ra sáu tháng sau khi cha cô bị ám sát, khám phá những ngày cuối cùng người Mỹ có mặt tại Việt Nam, và những cảm giác tội lỗi ngập tràn của một số người, khi xe tăng Bắc Việt đang kéo vào Sài Gòn, đã buộc phải bỏ lại sau lưng hàng trăm người Việt Nam mà họ đã hứa sẽ bảo vệ.
Thượng sĩ Juan J. Valdez nhận huy chương sau chiến dịch Frequen Winds. Hình của TQLC Mỹ.
Thượng sĩ Juan J. Valdez nhận huy chương sau chiến dịch Frequent Winds. Hình của TQLC Mỹ.
khóa của tác phậm chính là những nghiên cứu sâu sắc và các cuộc phỏng vấn những người trong cuộc, họ đều là những nhân vật đã có một vai trò trong cuộc di tản của Mỹ vào cuối tháng Tư, 1975. Đó là Thượng sĩ TQLC Juan Valdez, người Mỹ cuối cùng trèo lên chiếc trực thăng cuối cùng rời khỏi tòa Đại sứ Mỹ, cũng như một số người Việt Nam đã bị bỏ lại.
Những câu chuyện của họ đậm nét bi hùng. Sau đó, người xem phim có thể sẽ không nhớ nhân vật đã đón người thợ may quần áo dân sự cho ông ta, cùng với những người nấu ăn cho ông và gia đình của họ, và đưa họ đến tòa Đại sứ Mỹ để họ có thể được cứu thoát; nhưng khán giả chắc chắn sẽ nhớ tới niềm tin đạo đức của những gì được coi là một quyết định bất hợp pháp vào thời điểm đó. Rory Kennedy cũng đề cập đến Richard Armitage và Henry Kissinger, cả hai đều đóng vai trò quan trọng trong cuộc di tản ấy, dù chỉ có một người thực sự xuất hiện ở hiện trường.
ĐS. Graham Martin (c 1975). Nguồn: TQLC Mỹ
ĐS. Graham Martin (c 1975). Nguồn: TQLC Mỹ
Kennedy cũng đã vẽ lên chân dung thực của Đại sứ Graham Martin, có người con trai duy nhất đã tử trận tại Việt Nam, và cho thấy Đại sứ Martin đã đợi quá lâu trước khi bắt đầu kế hoạch di tản người Mỹ. Điều này khiến nhiều người đã không đi kịp, nhưng Martin, một khi đã có lệnh, lại là một người vị tha đã cứu thoát hàng ngàn người trong những ngày cuối tại Việt Nam. Martin, đã qua đời vào năm 1990, có thể được xem là người vừa dại dột vừa anh hùng, nhưng trên hết, ông được xem như một con người đứng trước những sự lựa chọn vô cùng khó khăn, và là một người đã làm những gì ông nghĩ là đúng.
“Lên kế hoạch di tản là việc của cấp trên của tôi,” một sĩ quan Hải quân Mỹ cho biết trong cuộc phỏng vấn với Kennedy. “Nhưng nếu biết làm như vậy là đúng thì người phải bỏ qua những quy tắc và cứ làm theo tiếng nói của con tim.” ‘Những ngày cuối ở Việt Nam’ đầy những mẩu chuyện của những người hành động theo tiếng nói của con tim của họ trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn.
Đây là một câu chuyện căng thẳng và lôi cuốn, gồm những đoạn phim lưu trữ tuyệt vời, ghi lại cảm xúc thực của những người đã trải qua những kinh nghiệm không thể tưởng tượng được. Đây là một phim tài liệu súc tích có cơ sở nhắc nhở chúng ta về một trong những trang sử xấu nhất, và một số những con người tốt nhất đã là một phần của trang sử đó.

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire