Nhớ lại những ngày còn là học sinh trung học, với đám bạn bè cùng lớp, thêu dệt ước mơ. Một ngày kia, khi đất nước không còn tiếng súng, chúng tôi sẽ đạp xe xuyên suốt ba miền. Chúng tôi sẽ bắt đầu từ Mũi Cà Mau, vùng đất cuối cùng của tổ quốc và đạp thẳng đến tận Ải Nam Quan. Chúng tôi sẽ ghé thăm núi Mã Yên, Tụy Động, Chúc Động, nơi các tướng Lý Triện và Đinh Lễ đã từng tử chiến với đại quân của Vương Thông, Phương Chính, Mã Kỳ. Chúng tôi sẽ ghé thăm Thiên Trường, nơi Trần Bình Trọng mắng vào mặt kẻ thù trước khi bị chém. Đêm đêm nằm nghe tiếng súng vọng về bên kia sông Thu Bồn, lòng chợt đau khi nghĩ đến những người đang chết. Dù nhân danh bất cứ lý do gì, cái chết của một người Việt Nam vẫn là một điều đáng tiếc. Đất nước sẽ phải hết chiến tranh. Quê hương rồi phải có hòa bình. Dân tộc Việt Nam phải đi lên. Những thôn làng tối tăm phải được thắp sáng bằng những nhà máy điện hiện đại. Ước mơ của tuổi học trò bao giờ cũng dể thương và trong sáng như mối tình đầu của hai kẻ yêu nhau mà không hề lo nghĩ đến chuyện nợ nần, cơm áo ngày mai. Trong khao khát của những đứa bé lớn lên trong chiến tranh như đàn nai tơ khát nước, chẳng thể nào phát họa nổi bức tranh về ngày hòa bình rồi sẽ ra sao.
… Người lính Cộng Sản bị mê hoặc bởi một ý thức hệ vong bản khủng
khiếp đến nỗi chỉ biết hận thù, đấu tranh, giết chóc. Suốt đời họ được
huấn luyện để nói dối, dối có hệ thống, dối một cách hồn nhiên và dối
trong cả những chuyện hiển nhiên nhất. Nhiều người nghiên cứu cuộc chiến
Việt Nam cho đến nay vẫn thắc mắc rằng, làm thế nào một miền Nam hùng
mạnh lại dễ dàng mất về tay những anh chàng khờ khạo từ trong rừng xuất
hiện. Đơn giản bởi vì nếu các anh không khờ khạo thì đã không chiếm được
miền Nam. Nếu các anh biết thế nào là ý nghĩa của hai chữ chọn lựa và
có quyền chọn lựa một cuộc đời để sống, thì các anh không dại gì chọn để
chết. Thanh niên miền Bắc bị đầu độc rằng đồng bào miền Nam đang đói
khát và ngày đêm chờ đợi họ vào để “giải phóng khỏi xích xiềng đế quốc.”
Thế nhưng thực tế đã trái ngược. Đồng bào miền Nam đã bỏ cả làng mạc,
ruộng vườn, nhà cửa, lưng cõng mẹ già, tay bế con thơ để tìm đường vào
Nam lánh nạn. Cuối thế kỷ 20, nhưng thanh niên miền Bắc vẫn còn được dạy
để tin rằng “Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ và đồng hồ Liên-xô
tốt hơn đồng hồ Thụy Sỹ.” Một đoạn trong bài thơ Ðịa Ngục Không Cửa Sổ
của Việt Phương, thư ký riêng của Phạm Văn Đồng viết tại Hà Nội năm 1972
sau một chuyến được xuất ngoại với phái đoàn ngoại giao Cộng Sản:
Tôi đã đến Paris phồn hoa tráng lệÐi dưới trời tuyết lạnh
Tôi ngẩn ngơ từng góc phố con đường
Sao tôi thấy cảnh thanh bình xa lạ
Từng đàn chim quanh quẩn dưới chân người
Cuộc sống nơi đây tôi nào có biết
Nhưng nhận ra ngay qua những nụ cười
Ở nơi đó tôi thấy rất nhiều khác lạ
So với điều người ta dạy cho tôi
Và từ đó hồn tôi bỗng “CỬA MỞ”
Tôi khóc thầm cho dân tộc của tôi
Hỡi Nhân Loại! Hãy giùm tôi mở cửa
Bao nhiêu người đang ngu muội lầm than
Trong địa ngục khổng lồ không cửa sổ.
Thật vậy, từ sau 1954, miền Bắc Việt Nam chìm trong bóng đêm dài
không một ánh trăng sao. Nửa đất nước là một địa ngục lầm than không cửa
sổ.
*
* *
Nửa Thế kỷ một Dòng Sông (Phần 1)
***
***
Nửa Thế kỷ một Dòng Sông (Phần 2)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire