SÀIGÒN NGÀY DÀI NHẤT (Duyên Anh): Những đoạn viết ngắn về Quê-Hương
Trung Tâm Thúy Nga Paris sản xuất)
Thù
hận dân tộc khởi sự từ cây cầu định mệnh này. Nước mắt quê hương bắt
nguồn từ dòng sông oan nghiệt này. Lịch sử nào cũng có những thời của
chiến tranh và những thời của hòa bình. Thời của chiến tranh mười năm
vừa qua trên giang sơn gấm vóc Việt Nam. Nó vừa qua bằng những giọt lệ.
Không phải là giọt lệ reo vui hòa bình mà là giọt lệ bẽ bàng phân chia
tổ quốc. Một lần huyền thoại Lạc Long Quân – Âu Cơ. Một lần Thập Nhị Sứ
Quân làm đau đớn ý nghĩa đồng bào. Một lần sông Gianh buồn tủi. Và,
bây giờ, sông Bến Hải ô nhục. Vẫn một dòng sông biểu tượng của xa rời
tình tự, của đứt khúc anh em, nhưng hôm nay, dòng sông ngầu đỏ ý thức
hệ. Thù hận dân tộc có xuất xứ rõ nét bằng ý thức hệ, bằng chủ nghĩa
hoàn toàn xa lạ với dân tộc chúng ta. Thì mặc kệ nó thôi, cái vĩnh cửu
của Việt Nam là cần thiết. Tổ tiên chúng ta đã biết ngậm thống khổ, đã
can đảm chấp nhận mọi nghịch cảnh, đã kiên nhẫn chiến đấu cho sự tồn tại
vĩnh cửu của Việt Nam. Cuối cùng, sông Gianh chỉ còn là hồi tưởng một
thời ta xa nhau, một thời tình yêu héo úa, một thời hạnh phúc ngẩn ngơ.
Chúng ta cũng biết ngậm thống khổ, cũng biết can đảm chấp nhận mọi
nghịch cảnh, cũng biết kiên nhẫn xây dựng lại một miền quê hương đổ vỡ
sau hòa bình què cụt. Để lấp sông Bến Hải. Để con người gần gũi con
người. Để anh yêu em, nhớ em như ca dao đã dạy chúng ta yêu nhau, nhớ
nhau. Thế thì miền Nam thân yêu, cái nôi đời êm ái, đã ru chúng ta niềm
hy vọng, đã phả vào hồn chúng ta nỗi ước mơ làm lại quê hương, làm đẹp
quê hương, làm đoàn tụ quê hương, làm rực rỡ quê hương. Chúng ta tiếp
nối kinh nghiệm của tiền nhân; ý chí của tiền nhân, dũng cảm của tiền
nhân, vượt lên mọi thống khổ, vượt lên mọi thù hận. Để Việt Nam mãi mãi
ngạo nghễ dưới mặt trời. Và, vậy đó sự phồn vinh bắt đầu ở miền Nam, ý
nghĩa rạng ngời của đời sống bắt đầu ở miền Nam. Chúng ta sáng tạo một
thời yêu thương thay đổi một thời thù hận. Chúng ta bắt nòng súng nở hoa
thơm ngát hương nhân ái. Chúng ta bắt đạn câm. Chúng ta bắt tạo hóa mỉm
cười độ lượng. Rồi, như tiền nhân, bằng trái tim bồi hồi, xao xuyến
những giấc mơ xanh; bằng những nốt nhạc nhẩy múa trên môi: “Việt Nam,
Việt Nam nghe tự vào đời… Việt Nam không đòi xương máu… Tự do, công
bình, bác ái muôn đời…” Chúng ta đã có miền Nam, nơi đồn trú của tình tự
dân tộc, của lãng mạn dân tộc, của cao thượng dân tộc, của thi ca chan
chứa tình người, của tiểu thuyết tràn trề nhân bản, của âm nhạc đưa hồn
lên cao. Để tô thắm triết lý Rồng Tiên, để keo sơn cái còn vĩnh viễn của
Việt Nam. Chúng ta đã quên thở dài. Chúng ta cất tiếng hát…
Buồn
thay, chúng ta chưa được hát no đầy giọng ca, chưa được hát đẫy đà nốt
nhạc thì cây cầu định mệnh kia cựa quậy, dòng sông oan nghiệt nọ nổi
sóng, thứ sóng tham vọng của chủ nghĩa Cộng Sản xâm lược. Những giọt
nước mắt Việt Nam bắt đầu ứa ra từ miền Bắc. Rồi những giọt nước mắt
chẩy dài theo tuổi nhỏ quắt queo đeo trên lưng cái hiện tại ê chề miệt
mài bước đường vô định, theo dân hiền bị cưỡng bức chuyên chở đau thương
mà lê chân dọc lối mòn vô vọng. Nước mắt cùng máu rướm chân không thấm
vào lòng đất quê hương. Nước mắt trên vai phụ nữ dân công gồng gánh.
Nước mắt lên thác xuống ghềnh. Nước mắt nhục nhằn của thân phận Việt Nam
đã làm cỏ rừng xúc động, đã làm đá suối nghẹn ngào. Họ thiếu trái tim
nên họ không ái ngại đất lún. Họ thiếu con mắt nên họ không thương xót
trẻ thơ vác súng đạn băng rừng, vượt núi. Và họ gây chiến tranh. Súng đã
nổ. Đạn Cộng Sản khiến ứa máu thanh bình của chúng ta. Bây giờ là nước
mắt miền Nam. Nước mắt của chết chóc, của thương tích, của sợ hãi. Nước
mắt của mẹ già. Nước mắt của em bé. Nước mắt của tất cả. Phải làm những
giọt nước mắt ngừng chẩy. Phải ngăn chặn chiến tranh. Tuổi trẻ miền Nam
giã từ gia đình đi lo việc cứu nước, giữ nước…
***
Tổ
quốc gọi, tuổi trẻ lên đường. Vất bỏ lại những phù phiếm vật chất và
chấp nhận cuộc đời gian nan. Bởi vì, đã là lính, đã tình nguyện vào nơi
gió cát. Những vầng trán kiêu hãnh ngẩng cao: Danh dự, Trách nhiệm, Tổ
quốc, Vinh quang bao giờ cũng phải trả giá bằng nhiệt tình và lòng tự
phụ. Nhiệt tình là phóng thẳng lên phía quân thù, là chỉ biết tiến không
biết lùi, là chỉ biết thắng không biết bại, là thèm sống vinh và sợ
chết nhục. Tự phụ là vừa chiến đấu bảo vệ non sông ngoài tiền tuyến vừa
bảo vệ hạnh phúc cho đồng bào ở hậu phương.
Hãy
hồn nhiên, em bé! Hãy nhẩy múa, hát hò, reo vui Em đừng thèm nghĩ đến
chiến tranh, em bé nhé? Chiến tranh là ác quỷ. Đã có anh diệt ác quỷ. Em
bé thiên thần ơi, mãi mãi là mắt ngọc, tóc ngọc, môi ngọc, lời ngọc,
hồn ngọc. Để anh nhẹ bước chiến chinh. Người lính Việt Nam Cộng Hoà
tuyệt vời. Chẳng còn ngôn ngữ nào cao quý hơn để vinh danh lính của
chúng ta, những con người biết sống, biết chiến đấu và biết chết. Hơn cả
hào hùng, lính của chúng ta lãng mạn nhất loài người, chấp nhận chiến
đấu cho sự sống còn của dân tộc và cả cho tình yêu của mọi người. Nói rõ
rệt, lính của chúng ta chiến đấu để làm rực rỡ ý nghĩa của Cái Thật,
Cái Tốt, Cái Đẹp của con người. Đó là những người lính đi chiến đấu vì
con người, vì tình người, vì đạo nghĩa Việt Nam, vì tình tự Việt Nam, vì
những cái tồn tại vĩnh cửu của Việt Nam. Yên vui hậu phương, đó là mềm
vui của người lính sa trường, đó là lý do chắc tay súng và ngắm đúng kẻ
thù. Không có thứ huy chương nào xứng đáng cho sự hy sinh của người lính
Việt Nam Cộng Hoà cả. Chắc chắn, họ không chiến đấu vì huy chương. Lý
tưởng chiến đấu của họ chỉ được nhìn thấy khi chúng ta chứng kiến họ
đứng giữa biên giới sống chết. Họ sống vì cái sống của mọi người. Họ
chết cũng vì cái sống của mọi người. Người lính đã quên cả sự sống lẫn
sự chết của mình. Và ngay cả lúc đứng giữa biên giới của sống chết,
người lính Việt Nam Cộng Hoà vẫn còn thừa niềm xúc động để nhỏ nước mắt
xót thương đồng bào mình trong điêu linh, tang tóc của chinh chiến. Có
lẽ, chúng ta đã vô tình không chịu hỏi lính của chúng ta nghĩ gì. Vậy
thì anh làm ơn trả lời đồng bào anh, anh đã nghĩ gì, người lính?
***
Không,
anh còn khiêm tốn lắm, người lính Việt Nam Cộng Hoà. Đề đồng bào anh
nghĩ về anh, nghĩ về lính lãng mạn, hào hùng mà biểu tượng là người lính
Nhẩy Dù Nguyễn Đình Bảo. Quân sử việt Nam đã trân trọng viết bằng son
thắm những trang chính xác về thiên thần mũ đỏ. Chẳng thể thiếu sót tên
tuổi và chiến tích vang động đất trời của chiến sĩ dù. Hơn cả chính sử,
ngoại sử, huyền sử, tiểu thuyết dã sử còn đưa lính mũ đỏ vào trong những
lớp sương mầu thần thoại. Hãy hỏi những con chim đậu trên giây điện xem
chúng có ngậm nhạc ngợi ca Nguyễn Văn Đương, Nguyễn Đình Bảo. Hãy hỏi
kẻ thù xem họ có nghiêng mình trước sự dũng cảm của những người lính dù ở
lại Charlie. Cho phép tôi được nhỏ một giọt nước mắt muộn màng tưởng mộ
những người lính dù đã đi vào lịch sử.
***
Chiến
tranh là trò chơi thô bỉ. Không ai thích chơi trò chơi của chiến tranh
cả. Con người sinh ra không phải để săn đuổi giết nhau. Chúng ta không
chơi chiến tranh, chúng ta chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Vì thế, nước mắt
còn ứa ra tội nghiệp cho tuổi trẻ miền Bắc bị Cộng Sản tước đoạt linh
hồn đích thật Việt Nam để nhồi nhét vào đầu óc họ cái lý tưởng phi nhân
bản, phi dân tộc, cái lý tưởng giải phóng bịp bợm của chủ nghĩa mù, của
chế độ điếc, của lãnh tụ ngu. Hãy nhìn những người bộ đội “sinh Bắc, tử
Nam”? Hãy nhìn họ, hãy suy nghĩ về cái chết của họ, sẽ có một lời kết án
nghiêm khắc chủ nghĩa Cộng Sản. Cộng Sản cứ đẩy họ vào một chiến thắng
ảo tưởng. Bộ đội miền Bắc cứ chết thảm, cứ thua nhục… Bằng súng đạn, hỏa
tiễn của Liên Xô, Trung Cộng, Cộng Sản Việt Nam đã cầy nát quê hương
miền Nam của người Việt Nam, đã sát hại người Việt Nam. Rõ ràng, Cộng
Sản Việt Nam vì cái chủ nghĩa quốc tế vô sản mà phản bội quốc gia. Chính
nghĩa quốc gia thuộc về chúng ta, của chúng ta. Chính nghĩa ấy đã được
người lính Việt Nam thắp sáng ở khắp chiến trường. Nơi nào người lính
Cộng Hòa đến, nơi ấy Cộng Sản thảm bại. Nơi nào Cờ Vàng chiến thắng tung
bay, nơi ấy tự do, thanh bình, no ấm. “Việt Nam không đòi xương máu”.
Chúng ta đòi hòa bình để xây dựng đất nước chúng ta phồn thịnh, dân tộc
chúng ta hạnh phúc, thương yêu. đoàn tụ. Nhưng Cộng Sản điên cuồng “thề
phanh thây, uống máu” chúng ta, chúng ta cần dạy dỗ họ những bài học
nhân bản, để họ trở về con người đầy đủ nhân tính, để hủy diệt thú tính
của họ. Chúng ta không thèm mơ ước chiến lợi phẩm tính bằng xác T-54,
bằng AK, bằng B-40. Chúng ta mơ ước những cánh đồng lúa chín, những nhà
máy phun khói, những chuyến tầu đến đi, những mái trường rộn rã tiếng
chim non ca hót. Chúng ta không gây chiến mà chúng ta phải tham chiến.
Và vì chiến tranh, chúng ta mất mát khá nhiều. Nước mắt vẫn rơi theo máu
rơi. Những giọt nước mắt cay đắng nhất vẫn là những giọt nước mắt của
người vợ lính đi nhận xác chồng tử trận.
***
Đã
bao nhiêu người vợ lính mắt đẫm lệ đi nhận xác chồng? Đã bao nhiêu
người vợ lính tìm thấy xác chồng và chẳng biết xác chồng mình ở đâu? Tôi
lại xin được nhỏ giọt nước mắt muộn màng ngưỡng mộ chinh phụ của thời
đại tôi. Và không thể nào tha thứ cho Cộng Sản. Chủ nghĩa hèn mạt của
họ, thêm một lần, chứng tỏ sự phi dân tộc của họ. Họ đã xúc phạm đến cả
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Họ đã dẫm giép râu lên phong
tục, tập quán ngàn đời của người Việt Nam. Cộng Sản không khước từ một
cơ hội nào để bắt máu chẩy, để đòi nước mắt rơi, để chém giết. Cộng Sản
đem chiến tranh vào thành phố. B-40 của họ đã thụt cháy bàn thờ tổ tiên
của chúng ta ngày Tết. Họ đã bắn đạn AK nát phong bao mừng tuổi trẻ thơ.
Đạn tội ác của Cộng Sản thay pháo đốt mừng xuân. Bầy thú dữ vô thành
phố. Những gì đã xảy ra? Đi hỏi thùng rác đầu đường, thùng rác cũng phẫn
nộ vì bị găm đạn Cộng Sản. Đi hỏi con chó rên rỉ dưới chân cột đèn, con
chó cũng phẫn nộ vì bị găm đạn Cộng Sản. Đừng hỏi người. Đừng hỏi. Hãy
nhìn khói bốc mù trời thành phố. Hãy nghe đạn nổ kinh hoàng. Hãy ngắm
những khuôn mặt sợ hãi. Và những giọt nước mắt đêm xuân… Và rồi sẽ có
một định nghĩa về những giọt nước mắt.
Đánh
đâu thua đấy, càng đánh càng thua. Cộng Sản đã phải trả giá chua cay
cho vụ Mậu Thân đến nỗi Hồ Chí Minh phẫn mà chết. Cộng Sản lại tiếp tục
trả giá chua cay cho Mùa Hè Đỏ Lửa. Họ đã phiêu lưu vào chiến tranh một
cách dại dột. Họ không thể ngờ họ đã phải đương đầu với anh hùng miền
Nam. Mỗi người lính Cộng hòa là một hào kiệt, một tráng sĩ… Sa lầy quân
sự ở chiến trường miền Nam vì tham vọng xâm lăng, Cộng Sản đã bóc lột
đến giọt mồ hôi lao động cuối cùng của dân miền Bắc. “Dưới ngọn cờ quang
vinh của Đảng”, dân miền Bắc đã phải dân công thủy lợi phục vụ chế độ
bạo tàn hơn cả nô lệ thời thực dân. Phẩm cách con người hầu như bị tước
đoạt hết và quyền sống thì chẳng còn. Vì “giải phóng miền Nam” mà dân
miền Bắc đói khổ, ngu dốt, lạc hậu. Bộ đội đã mượn xuống tuổi 16? 16
tuổi phải cầm súng lao vào chỗ chết. Cái ưu việt của chủ nghĩa, cái nôi
của loài người, cái đỉnh cao trí tuệ Cộng Sản ở những chiếc xe đạp thồ
đá, thồ cây…
***
Nhưng
mà giọt nước mắt cho Việt Nam bẽ bàng nhất, thê lương nhất thì lại ở
đây, ở ngay nước Mỹ. Những kẻ phản chiến đã để lương tri của họ ngủ vùi
trong một thời mê sảng. Âu Châu văn minh, Âu Châu của công bình, bác ái
đã nhắm mắt lại toa rập với những kẻ phản chiến một chiều. Buồn cho Âu
Châu ấy, Âu Châu của trí tuệ Âu Châu biết phán xét đã quên trí tuệ cựu
lục địa, bám gót bọn chăn bò Mỹ để lên án bom đạn Mỹ và giả vở không đếm
xỉa hỏa tiễn Liên Xô, đại bác Trung Cộng. Rốt cuộc, Âu Châu và Hoa Kỳ
đều bị đám khố rách Cộng Sản huyễn hoặc một cách đáng thương hại. Thế
trận thay đổi bằng sự trợ giúp đắc lực của phản chiến Mỹ, báo chí Mỹ,
truyền thông Mỹ và Âu Châu. Chúng ta khó tin sự phản tỉnh. Bởi vì, cá
sấu chưa cười khi nhai nghiến con mồi. Bởi vì, nỗi khổ của dân tộc chúng
ta vẫn còn sáng giá cho bọn làm dáng tiến bộ, làm dáng hòa bình…
***
Nỗi
khổ của dân tộc chúng ta còn là đường rầy oan nghiệt cho chuyến tầu hữu
nghị phản phúc của nước lớn nghiến nát thô bạo. Bom Mỹ, hỏa tiễn Liên
Xô, đại bác Trung Cộng đã tàn phá đất nước chúng ta hai mươi năm. Nhân
danh ai, nhân danh cái gì? Lái buôn súng đạn, phù thủy chủ nghĩa đem
thân phận tổ quốc chúng ta, đem xương máu dân tộc chúng ta mua bán, đổi
chác? Chẳng có gì cao quý để nhân danh cả, ngoài quyền lợi tư bản và
quyền lợi Cộng Sản. Những tâm hồn tư bản bần tiện, những tâm hồn Cộng
Sản bần tiện, những tâm hồn bá quyền bần tiện, bọn đấu thầu chiến tranh
lại lột lưỡi đấu thầu hòa bình. Mỏ con ó cứ nhọn. Móng vuốt con gấu cứ
sắc ác điểu và ác thú ôm nhau hôn, ôm nhau khiêu vũ trên bãi tha ma.
Cùng với sự phản phúc của tư bản, sự bẻ gẫy lương tâm của thế giới tự
do, nước mắt Việt Nam ứa ra cho một chia lìa đòi đoạn…
***
Chúng
ta lại ra đi. Lần này chúng ta bỏ tổ quốc ra đi. Làm sao có thể đo được
mức độ nước mắt Việt Nam tuôn rơi cho một chuyến đi não nề? Nước mắt
chia lìa tình tự dân tộc, hai mươi năm trước bắt nguồn từ dòng sông Bến
Hải. Bây giờ, nó bắt nguồn từ dòng sông nào? Có lẽ, người Việt Nam sẽ
đặt cho dòng sông ấy một cái tên. Phải, một cái tên. Để nhớ. Để kể cho
con cháu nghe. Tên nó là Phản Bội. Thế thì nước mắt chia lìa tình tự dân
tộc, hai mươi năm sau, bắt nguồn từ dòng sông Phản Bội. Hai mươi năm
hai lần người Việt Nam sống đời du mục, thân phận du mục của thời đại
đông đầy chó sói chủ nghĩa, cá sấu ý thức hệ. Lần thứ nhất, chúng ta tỵ
nạn trên quê hương chúng ta. Lần thứ hai, chúng ta tỵ nạn ở những nơi
chốn nào trên trái đất? Ôi, di cư? Ôi, di tản? Di tản ê chề gấp bội di
cư. Hai mươi năm, tưởng chừng mới hôm qua. Mới hôm qua 1954…
***
Người
Mỹ nói “lịch sử đã sang trang ‘? Chúng ta phải hiểu họ chẳng còn thiết
tha gì tới lý tưởng khai phóng tự do, dân chủ nữa. Con thò lò nào cũng
có sáu mặt lương tâm. Và nó có thể thản nhiên cắn gẫy bất cứ thứ lương
tâm nào không có lợi cho nó. Nhìn lại di cư 1954 để so sánh di tản 1975,
chúng ta mới vỡ lẽ. Nước Pháp thua trận vẫn còn chinh phục được lòng
biết ơn của chúng ta, vì họ đưa chúng ta vào Nam tử tế, họ xứng đáng văn
minh và nhiều văn hóa. Nước Mỹ thua trận là thua hết. Họ thiếu văn hóa.
Tinh thần trọc phú bần tiện Mỹ thể hiện rõ rệt ở cuộc di tản 1975 tại
Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở sài gòn. Họ cam kết bảo vệ tự do, dân chủ miền Nam,
họ đem danh dự Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ làm lời hứa. Rồi họ phản phúc.
Chúng ta thật sự hiểu lòng dạ Hoa Kỳ từ lúc Gerald Ford tuyên bố: “Lịch
sử đã sang trang.” Sự sang trang của lịch sử Hoa Kỳ ngoạn mục nhất, đối
với họ, là cảnh tượng người Việt Nam đi tìm tự do một mình bằng thuyền
gỗ lênh đênh trên đại dương. Bây giờ, thuyền nhân Việt Nam dũng cảm hơn
dân tộc Mỹ, hơn loài người. Thuyền nhân Việt Nam vinh danh Tự Do cao quý
Thuyền nhân Việt Nam đã mở mắt cho thế giới hoan lạc, ích kỷ bằng những
giọt nước mắt khó quên của một thời đại mê sảng. Chẳng hiểu bọn phản
chiến Mỹ ngu xuẩn, tôi mọi không công cho Cộng Sản có dám căng mắt nhận
diện thuyền nhân Việt Nam ở địa danh buồn bã Poulau Bidong, Poulau
Tengah, Sikew, Palawan, Song- kla… Hãy nhìn kỹ, thế giới thiển cận và
trí tuệ những kẻ lên án chiến tranh Việt Nam tại Âu Châu, Mỹ Châu và Úc
Châu! Hãy nhìn kỹ xem những người trải dài thân phận mình suốt cuộc
chiến hai mươi năm có phải là những người hiếu chiến, có phải là những
người gây chiến, có phải là tội phạm chiến tranh? Không, người Việt Nam
đấy, người Việt Nam nạn nhân của chủ nghĩa Cộng Sản, của chủ nghĩa tư
bản, của hỏa tiễn Liên Xô, của bom đạn Hoa Kỳ, của sự tráo trở, bịp bợm
hèn mạt của các nước lớn đấy. Lý tưởng tự do dân chủ của Mỹ, lý tưởng
cách mạng giải phóng của Liên Xô đã bị người Việt Nam yêu quê hương mình
tha thiết phải bỏ quê hương, bỏ sự nghiệp ngàn đời của tổ tiên để lại
mà sống kiếp lưu đầy. Và những giọt nước mắt Việt Nam lưu vong ứa ra.
Những giọt ngọc Việt Nam đánh dấu mốc đường oan của nhân loại. Em yêu
dấu, hãy để những giọt nước mắt Việt Nam vang vọng đất trời…
Giọt nước mắt nhục nhằn
trên xiềng gông chung thân
Giọt nước mắt đợi chờ mòn nỗi đá ôm con
Giọt nước mắt thê lương
Giọt nước mắt quê hương
nghe buốt răng sâu, cây thù lá hờn…
Giọt nước mắt chẩy dài
theo thuyền nhân lênh đênh
Giọt nước mắt nghẹn ngào
biển ướp muối khô tim
Giọt nước mắt oan khiên
Giọt nước mốt cô đơn
ngơ ngác hỡi em quê người đảo điên
Giọt nước mắt lung linh màu nàng ngoan
hong tâm sự nát tan
mai em mình lớn khôn
ôi giọt nước mắt cho những thân phận sốt se
cho những tâm hồn tái tê
cho những con người não nề…
Giọt nước mắt tỏ tình thương ngàn xua hư vô
Giọt nước mất tội nghiệp còn thế giới hoang vu
Giọt nước mắt tâm tư
Giọt nước mắt ươm mơ
rơi xuống em ơi. xanh ngọc vàng tơ…
trên xiềng gông chung thân
Giọt nước mắt đợi chờ mòn nỗi đá ôm con
Giọt nước mắt thê lương
Giọt nước mắt quê hương
nghe buốt răng sâu, cây thù lá hờn…
Giọt nước mắt chẩy dài
theo thuyền nhân lênh đênh
Giọt nước mắt nghẹn ngào
biển ướp muối khô tim
Giọt nước mắt oan khiên
Giọt nước mốt cô đơn
ngơ ngác hỡi em quê người đảo điên
Giọt nước mắt lung linh màu nàng ngoan
hong tâm sự nát tan
mai em mình lớn khôn
ôi giọt nước mắt cho những thân phận sốt se
cho những tâm hồn tái tê
cho những con người não nề…
Giọt nước mắt tỏ tình thương ngàn xua hư vô
Giọt nước mất tội nghiệp còn thế giới hoang vu
Giọt nước mắt tâm tư
Giọt nước mắt ươm mơ
rơi xuống em ơi. xanh ngọc vàng tơ…
Phải
lắm, em ạ, chúng ta chẳng cần những giọt nước mắt thế giới xót thương
chúng ta. Chúng ta nhỏ nước mắt xót thương chúng ta và xót thương thế
giới. Anh muốn giọt nước mắt của em, giọt nước mắt thuần khiết Việt Nam
của em, nhỏ xuống làm lay động cái bóng tối u mê phủ kín lương tri của
loài người. Hãy khóc, em ơi, bởi vì, những giọt nước mắt sẽ làm anh em
mình khôn lớn, sẽ làm anh em Việt Nam mình khôn lớn. Chúng ta cần thiết
khôn lớn bằng những giọt nước mắt thống khổ. Để làm lại quê hương Việt
Nam mai này. Chúng ta đi không phải ở lại. Chúng ta đi để về, sẽ về,
phải về. Thiên đường đích thực là quê hương chúng ta, là Việt Nam yêu
dấu, chỉ là Việt Nam thôi. Mọi nơi khác đều là cõi tạm và đều trống
vắng. Vậy thì, anh rất sợ nước mắt không còn long lanh trong mắt em. Khi
ấy, em đã quên nỗi khổ. Và em quên nỗi khổ, anh quên nỗi khổ, anh em
mình không thể trở về Việt Nam được. Thế nên, những giọt nước mắt lưu
vong sẽ nhắc nhở chúng ta một thời bơ vơ trên những thiên đường lạnh
buốt. Giọt nước mắt hôm qua nhỏ xuống vuốt ve nỗi khổ. Giọt nước mắt hôm
nay nhỏ xuống nuôi dưỡng nỗi khổ. Chúng ta quên nỗi khổ, ta quên luôn
quê hương ta, dân tộc ta. Em yêu dấu, anh muốn tâm sự:
Giả sử ngày mai em về Sàigòn
em sẽ mang gì cho quê hương?
Em có còn gì cho quê hương?
sau nhiều năm biệt xứ
sau nhiều năm quá khứ nhầu úa?
em sẽ mang gì cho quê hương?
Em có còn gì cho quê hương?
sau nhiều năm biệt xứ
sau nhiều năm quá khứ nhầu úa?
Giả sử ngày mai em về Sàigòn
Em có còn là em nữa không?
Em có còn ngọt ngào suối trong
Em còn thuộc ca dao,
còn giữ áo cho nhau thuở nào?
Em có còn là em nữa không?
Em có còn ngọt ngào suối trong
Em còn thuộc ca dao,
còn giữ áo cho nhau thuở nào?
Sợ em đã quên mùi hoàng lan đêm xuân
quên hương cau, thông vàng, bụi phấn
Giậu hoàng cúc thu dạt dào nỗi mình xưa
nhớ chăng em. thềm trưa mây mưa?
ôi giả sử ngày mai em về Sàigòn
Em thành người xa lạ quê hương
Em thành người đường quen xóa bóng
Linh hồn em lạnh cóng
Em vừa hay đã mất Sàigòn
quên hương cau, thông vàng, bụi phấn
Giậu hoàng cúc thu dạt dào nỗi mình xưa
nhớ chăng em. thềm trưa mây mưa?
ôi giả sử ngày mai em về Sàigòn
Em thành người xa lạ quê hương
Em thành người đường quen xóa bóng
Linh hồn em lạnh cóng
Em vừa hay đã mất Sàigòn
Thế
thì những giọt nước mắt lưu vong sẽ soi sáng nỗi khổ Việt Nam, em ơi!
Nỗi khổ ấy ở quê nhà, nỗi khổ ấy ở quê người. Nỗi khổ ấy chỉ hết khi
những giọt nước mắt vỡ ra thắp rực một hạnh phúc vĩnh cửu. Đó là ngày
anh em mình hồi hương. Em, ngày mai sẽ đến. Anh em mình về Việt Nam như
loài én báo hiệu mùa xuân trên khắp đất nước. Đêm đen của chủ nghĩa Cộng
Sản tuyệt tích. Chúng ta đã xóa nó rồi.
***
Tiếng
khóc Việt Nam vút lên trời. Trăng ngậm ngùi. Tiếng khóc Việt Nam phóng
ra biển. Biển xao xuyến. Mẹ già nằm đó. Mẹ đợi chờ định cư mòn mỏi. Mẹ
chết. Linh hồn mẹ lại vượt biển về quê hương. Đất quê hương sẽ ấm hồn
mẹ. Mẹ đã đến Sàigòn bồi hồi như đêm vĩnh biệt thành phố ấy.
***
Nhưng Sàigòn ra sao? Nước mắt vẫn cần cho thành phố bất hạnh đó. Một thi sĩ viết:
Sàigòn trong nhà gửi nỗi buồn
Ra sân, ra ngõ trống, đời trơn
Ra phường, ra phố, ra tăm tắp
Nơi những đề lao giữa núi rừng
Ra sân, ra ngõ trống, đời trơn
Ra phường, ra phố, ra tăm tắp
Nơi những đề lao giữa núi rừng
Sàigòn trong nhà mẹ ngóng con
Mắt sông cát lấp đã rêu cồn
Miệng thầm kinh nguyện lòng nghi hoặc
Ôi mãi cầu xin vẫn mỏi mòn
Mắt sông cát lấp đã rêu cồn
Miệng thầm kinh nguyện lòng nghi hoặc
Ôi mãi cầu xin vẫn mỏi mòn
Sàigòn trong nhà vợ nhớ chồng
Nhớ khùng, nhớ dại, nhớ lung tung
Nhớ nhiều, nhớ mãi. không quên nhớ
Buổi tối tay anh bị siết còng
Nhớ khùng, nhớ dại, nhớ lung tung
Nhớ nhiều, nhớ mãi. không quên nhớ
Buổi tối tay anh bị siết còng
Sàigòn trong nhà con đợi cha
Năm sáu mùa xuân bố vắng nhà
Bao giờ bố mới về đây bố
Con lớn khôn rồi biết xót xa
Năm sáu mùa xuân bố vắng nhà
Bao giờ bố mới về đây bố
Con lớn khôn rồi biết xót xa
Sàigòn trong nhà đầy ưu phiền
Rất hài hoà cảnh tượng chìm đen
Tủ giường. bàn ghế, nồi, xoong, chảo
Cùng với người chung một nỗi niềm
Rất hài hoà cảnh tượng chìm đen
Tủ giường. bàn ghế, nồi, xoong, chảo
Cùng với người chung một nỗi niềm
Sàigòn trong nhà vắng như tờ
Lâu lâu giọt nhỏ vọng hồn xua
Chú thạch thùng quen thôi tặc lưỡi
Và con nhện cũng chán giăng tơ
Lâu lâu giọt nhỏ vọng hồn xua
Chú thạch thùng quen thôi tặc lưỡi
Và con nhện cũng chán giăng tơ
Sàigòn trong nhà, Sàigòn ơi
Hãy thinh không nhé, hãy trùng khơi
Hãy im lặng đến thời lên tiếng
Vì tiếng em cao vọng tuyệt vời
Hãy thinh không nhé, hãy trùng khơi
Hãy im lặng đến thời lên tiếng
Vì tiếng em cao vọng tuyệt vời
Sàigòn
trong nhà buồn bã, Sàigòn ngoài phố ủ ê. Khuôn mặt chính xác của phồn
vinh không giả tạo của xã hội chủ nghĩa đã phơi bày rõ rệt dưới ống kính
trung thực của Tây phương. Nó là phần thưởng cao quý của những kẻ đòi
hòa bình tức khắc ở Việt Nam. Hòa bình rồi đó. Hòa bình lâu rồi đó.
Người đổi đời sống với ma ở nghĩa địa. Người lượm từng chiếc túi ny-lông
dơ bẩn rửa sạch để bán kiếm tiền mua gạo chợ đen. Hòa bình rồi đó. Thù
hận khởi sự, nhân quyền bị chà đạp, nhà tù mở rộng cửa lùa con người vô
tội vào. Hòa bình rồi đó, một hòa bình rỗng tuếch, đói khổ. Thiên đường
bánh vẽ Cộng Sản lộ nguyên hình. Cách mạng cai trị bằng chính sách gạo.
Ngày xưa roi điện thì còn
Ngày nay roi gạo hao mòn thịt xương
Ngày nay roi gạo hao mòn thịt xương
Vẫn
thứ roi gạo phũ phàng đã quất nát bao tử dân miền Bắc, lại quất ê chề
bao tử dân miền Nam. Ông Hồ Chí Minh hứa hẹn: “Đánh xong giặc Mỹ ta sẽ
xây dựng lại bằng mười năm xưa.” Chẳng phải thế đâu, chẳng bao giờ có
xây dựng mà chỉ có băng hoại, băng hoại đến cả tình người. Con người
tưởng đã được đoàn tụ trong khốn cùng, vẫn bị cưỡng bức ra đi. Lưu đầy
tại quê nhà? Đi đâu? Những miền tù ngục ngụy trang kinh tế mới. Phấn
cách mạng, son giải phóng đã nham nhở trên mặt hề chế độ Cộng Sản. Người
Việt Nam lại đi, lại đói khổ, lại lếch thếch, lại bơ vơ. Và đó là định
nghĩa tự do, hạnh phúc của Việt Nam dân chủ cộng hòa biến thể Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những ai còn ảo tưởng Cộng Sản nữa đây? Hãy
nghe dân gian lên tiếng:
Từ khi ta có Bác Hồ
Nhân dân chẳng được ăn no ngày nào…
Nhân dân chẳng được ăn no ngày nào…
Mãi
mà là khó khăn, là con người oằn vai, cong lưng thay trâu bò trong một
xã hội tô son khẩu hiệu “Xã hội Cộng Sản không còn người bóc lột người”.
Cái xã hội tồi tệ đó, lãnh tụ ăn đặc táo và dân chúng ăn khoai mì, ngô,
gạo hẩm ròng rã ba chục năm và sẽ ngàn năm…
Ai sinh ra cái củ mì
Hỏi: Để làm gì? Đáp: Để mà ăn
Nước nhà mãi mãi khó khăn
Dân mình mãi mãi phải ăn củ mì
Hỏi: Để làm gì? Đáp: Để mà ăn
Nước nhà mãi mãi khó khăn
Dân mình mãi mãi phải ăn củ mì
Con
người bị nô lệ hóa, bị bóc lột tận cùng sức lao động, bị đói khổ, bệnh
hoạn. Vậy mà chế độ cứ trơ trẽn khoác lác “Lao động là vinh quang”. Vậy
mà Tố Hữu cứ nịnh hót Hồ Chí Minh:
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa của em thơ, lụa tặng già
Sữa của em thơ, lụa tặng già
Sữa
nào tặng em thơ? Lụa nào tặng cụ già? Cụ già nằm rên rỉ trên nền đất
trong căn nhà ọp ẹp vùng kinh tế mới. Em thơ vừa nhay vú mẹ vừa khóc vì
mẹ ăn khoai mì vú làm sao căng sữa? Đảng thay người bóc lột người. Và
người lam lũ, khốn nạn gấp trăm lần người dưới ách thống trị thực dân,
đế quốc. Người đã có cách mạng, vẫn lao động thi đua với trâu bò. Người
đã bị cưỡng bức “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ
nghĩa” tồi tệ.
Và
đây là Cung Thiếu Nhi của xã hội chủ nghĩa ấy, là trường học dạy bài
“trồng người” của ông Hồ Chí Minh. Ở Cung Thiếu Nhi, ở Nhà Trẻ, ở Mẫu
Giáo, ở Tiểu Học Cộng Sản, tuổi thơ đập đá mưu sinh, đập nát hồn nhiên
hoa bướm. Tuổi thơ vừa đập đá vừa hát:
Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng
Lời Bác nay thành chiến thắng huy hoàng
Ba mươi năm đấu tranh giành toàn vẹn non sông
Ba mươi năm dân chủ cộng hòa kháng chiến
đã thành công…
Lời Bác nay thành chiến thắng huy hoàng
Ba mươi năm đấu tranh giành toàn vẹn non sông
Ba mươi năm dân chủ cộng hòa kháng chiến
đã thành công…
Kháng
chiến đã thành công. Và hạnh phúc của tuổi thơ là đập đá. Em bé Sàigòn
ơi, ngưng đập đá một chút, được không? Người chị dân công phẫn nộ, quắc
mắt diều hâu chống đối Cộng Sản bóc lột sức lao động ơi, ngưng phẫn nộ
một chút, được không? Em gái Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt ơi,
ngưng cấy lúa một chút được không? Cho tôi hỏi:
- Sàigòn vui không em?
Và chúng ta đã nghe câu trả lời:
- Sàigòn chỉ vui khi các anh về.
***
Các
anh sẽ về. Quân ta sẽ về. Súng đạn sắp theo người về giải thoát dân
tộc. Chúng ta có quyền hồi tưởng những chiến thắng Pleime, Bastogne,
Bình Long, Kontum, Quy Nhơn, Quảng Trị, Đồng Tháp… Chúng ta có quyền
nghĩ tới ngày động đất niềm vui. Bởi vì, chúng ta ra đi chiến đấu cho tự
do, không đi tìm tự do. Bởi vì, chúng ta ra đi ngậm thống khổ và còn
long lanh những giọt nước mắt, không đi tìm hoan lạc và những trận cười
vô nghĩa. Đau khổ làm chúng ta khôn lớn, làm hy vọng phục quốc của chúng
ta mọc mầm. Nước mắt làm chúng ta không quên nhục nhằn mất nước và tưới
xanh hy vọng của chúng ta. Chúng ta sẽ về như những người lính Cộng hòa
năm xưa đã về thủ đô Sàigòn sau mỗi vinh quang chiến thắng. Vùng trời
quê hương ta sẽ rộn ràng câu ca nhân ái:
Việt Nam không đòi xương máu
Việt Nam kêu gọi thương nhau
Việt Nam đi xây đáp yên vui dài lâu
Việt Nam kêu gọi thương nhau
Việt Nam đi xây đáp yên vui dài lâu
Bấy giờ, em ơi, giọt nước mắt cho Việt Nam đoàn tụ, hạnh phúc, thương yêu…
10-1987
o O o
NHỮNG ĐOẠN VIẾT NGẮN VỀ SÀI GÒN, VỀ VIỆT NAM
(Trong vidéo Giã Biệt Sàigòn
Trung Tâm Thúy Nga Paris sản xuất)
(Trong vidéo Giã Biệt Sàigòn
Trung Tâm Thúy Nga Paris sản xuất)
Còn
nhớ Sàigòn không? Thành phố tóc gẫy chia ly, thành phố mắt mờ giã biệt
một cuối tháng tư lạc tay thù. Còn nhớ Sàigòn không” Những tháng nhung
xanh cũ, những ngày lụa đào xưa, thành phố ấy, Sàigòn yêu dấu, mặt trời
thắp sáng ước mơ, ánh trăng soi rõ kỷ niệm. Mỗi vỉa hè là một giải chiêm
bao. Mỗi đoạn đường là một cơn hạnh phúc. Đã thấm niềm tưởng tiếc rồi
đó, sau mười năm lưu lạc. Có chỗ nào tuyệt diệu hơn Sàigòn? Thành phố ấm
quanh năm. Thành phố lá tương tư nhạc gió. Những đêm mưa, bụi khói khóc
hư vô. Cổ tích ướp hơi thơ. Tình ái ngát hương thu nghìn cũ. Sàigòn dệt
thơ làm nắng. Giữa tim hạ đã là xuân lãng đãng huyền thoại trong lối
lụa Tú Xương, trên nền gấm Huyền Trân. Chỉ cần một câu vọng cổ, đã xao
xuyến hồn già. Chỉ cần bước chân giao mùa, đã xanh mắt trẻ thơ, hồng môi
thiếu nữ. Ơi thiếu nữ Sàigòn, những cô gái áo dài tha thướt phố phường,
những cô gái áo ngắn gọn gàng công xưởng, những cô gái đồng phục nhịp
nhàng trên đường xây dựng và bảo vệ quê hương, những cô gái Việt rộn
ràng tiếng trống Mê Linh, miệt mài vó ngựa Bùi thị Xuân…
Vó
ngựa lại một phen tung bụi mịt mù đất nước. Chiến tranh xâm lăng từ
phương Bắc tràn xuống. Như tất cả tuổi trẻ thành phố, nông thôn, những
chàng trai Sàigòn xếp bút nghiên theo việc đao cung, tạm biệt phồn hoa
để dấn thân bảo vệ non sông. Mỗi tấc đất quê hương ông cha gửi lại đều
ký thác bằng mồ hôi, nước mắt và máu. Thì chiến đấu giành lại từng tấc
đất lọt vào tay quân thù cũng phải đổ mồ hôi, nước mắt và máu. Tuổi trẻ
Việt Nam đã kiêu hùng, vẫn kiêu hùng, mãi mãi kiêu hùng. Sự kiêu hùng ấy
đã làm nên những chiến thắng Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa…lại làm nên
những chiến thắng Bình Long, Kontum, Quảng Trị… Tuổi trẻ Sàigòn đã vinh
dự đóng góp xương máu cho những trang sử đấu tranh của giống nòi…
***
Trái
tim dân tộc đã nhiều lần rạn nứt phân chia đòi đoạn. Hôm nay, thêm lần
nữa, trái tim dân tộc rướm máu. Những sợi máu vương đây đó. Trên nỗi
đau. Trên niềm nhớ. Niềm nhớ có tên và niềm nhớ không tên. Sàigòn là một
niềm nhớ không tên. Có nhớ Sàigòn không? Có nhớ niềm nhớ không tên,
niềm nhớ ray rứt, niềm nhớ gặm nhắm thớ thịt ta từng phút, từng giây. Có
nhớ cổng trường xưa anh chờ đón em về chiều thu muộn? Có nhớ con đường
cũ lá me mưa xanh mướt ái ân? Sàigòn, niềm nhớ nhung trên những vệt sọn
môi, trong ánh mắt và trong hơi thở. Sàigòn, niềm nhớ nhung trong hạnh
phúc và trong đau khổ. Ở tuổi non và ở tuổi già. Ở xuân hồng sắp sang và
thu biếc đã qua. Ở hôm nay ta sống và ngày mai ta chết. Ở nghìn dặm kẻ
chân mây mù mịt. Ở tấc gang người cuối phố đầu phường. Ở sớm công viên
ngọn cỏ ngậm sương. Ở chiều bùng binh đèn mầu phố sắc…
***
Từ
một niềm nhớ không tên, Sàigòn đã thành nỗi đau có tên. Hãy hình tưởng,
Sàigòn, người tình chung của ta, lạc vào tay thù. Hoa lạc tay thù có ố
gương? Khi manh áo của loài chồn tinh phủ lên tên Sàigòn, thành phố của
ta bị lột da. Như chính ta bị lột da vậy. Và đó là nỗi đau mưng mủ trong
mỗi trái tim chúng ta. Những con đường hoa mộng cũ, bây giờ, hằn lên
những thù hận, thống khổ, thê lương, ngậm ngùi. Nụ cười hôm qua là giọt
lệ hôm nay. Hy vọng hôm qua là tuyệt vọng hôm nay. Đời sống đầy rẫy
những đe dọa ban ngày, những hãi hùng ban đêm. “Nếu cột đèn biết đi, cột
đèn sẽ vượt biển tìm tự do”. Ai đã nói giùm tâm sự cột đèn Sàigòn? Dân
tộc Việt Nam hiền hòa và luôn luôn bất hạnh, nào ngờ, sau một đổi đời
nghiệt ngã, lại hóa ra thuyền nhân khốn khổ lênh đênh trên mặt đại dương
chập chùng hệ lụy. Đất đưa người ra biển. Biển dẫn người về đâu? Về đâu
và sẽ ra sao tháng năm biệt xứ xanh xao phiền muộn. Đất đưa người ra
biển nhưng đất không chia xẻ với người thảm cảnh phiêu lưu. Biển dẫn
người về đâu, dẫn về đâu, biển cũng chẳng hiểu nổi sự đói khát, niềm sợ
hãi của người ra khơi. Thế đó, nhân loại có từ nỗi đau rõ rệt tên tuổi
của chúng ta một danh từ nạm vàng tủi nhục: Thuyền nhân…
Bỏ
quê hương ra đi, để lại Sàigòn héo hắt trong tay thù. Còn nhớ Sàigòn
không? Nghĩ gì về Sàigòn bây giờ? Sàigòn bây giờ ra sao? Đừng hỏi mưa,
hỏi nắng. Mưa và nắng cũng buồn bã trốn khỏi thành phố rồi. Hãy hỏi mẹ
lang thang góc phố. Hãy hỏi cha thất thểu đầu đường. Hãy hỏi chị ngồi lê
chợ trời. Hãy hỏi em chầu chực bán máu đỏ đong gạo đen. Son phấn hoàng
hôn những vỉa hè cơm áo. Nước mắt đêm khuya những cay đắng phận người.
Sàigòn bây giờ như vậy. Đến vỏ cây già cũng bị lột đến ngọn cao. Đến
muông thú Bách Thảo cũng gầy mòn, chết đói. Vẻ kiêu sa dĩ vãng là bệ rạc
hiện tại. Bàn tay ngọc thiếu nữ Sàigòn đã kềnh càng ghẻ lở vì nước phèn
thủy lợi cưỡng bức. Đôi mắt xanh em nhỏ đã trắng rã vì khoai sắn triền
miên. Sàigòn ra đường không áo dài. Sàigòn ra đường không cười nói, líu
lo. Cúi xuống là ngục tù, trại tập trung. Nhìn lên là công an độc ác.
Thời tiết Sàigòn bây giờ ngậm đầy khắc khoải. Không khí Sàigòn bây giờ
dằng dặc ngậm ngùi. Sàigòn bây giờ ở trong nhà với những phiền muộn, thở
dài, với những giọt nước mắt âm thầm nhỏ xuống miếng đời buồn tênh,
ngao ngán…
***
Nhưng
có phải xa Sàigòn là lên thiên đàng hạnh phúc không? Hãy hình tưởng
trùng dương nổi giận vô duyên cớ nuốt gọn thuyền nhân. Hãy hình tưởng
sóng gió phũ phàng vùi dập thuyền nhân. Hãy hình tưởng hải tặc tàn bạo
cưỡng hiếp, giết chóc thuyền nhân. Và, sau chót, hãy nhìn thật lâu, thật
kỹ ngày tháng chờ đợi phát chẩn ân huệ định cư ở các trại tỵ nạn, gọi
là “quán trọ trước cổng thiên đường”. Hãy nhìn rõ ràng những bước chân
em bé lên ba, lên năm, trên cát bỏng oan khiên quê người. Rồi sẽ hiểu
tại sao “Tôi biết tôi sẽ buồn”. Chừng đó lòng hoài hương bừng bừng sống
dậy, thuyền nhân ao ước một ngày về cùng Sàigòn gấm vóc ngày xưa…
***
Đâu
riêng gì Sàigòn phá sản hôm nay. Quê hương ta, khắp nơi, đều bị phá
sản, của cải và tình nghĩa, từ lá cờ hừng hực máu thù hận tanh hôi ngạo
nghễ tung bay. Hà Nội đã rạc rài hơn ba chục năm rồi. Thiên đàng của đám
người ảo tưởng và phản bội chỉ là thứ thiên đàng bánh vẽ Xã Hội Chủ
Nghĩa bước giật lùi. Không còn ai chết đói mà chỉ còn những ai đói rách
triền miên. Đất nghìn năm văn vật, người sống bằng tiêu chuẩn vật, vật
và người đồng hóa, vật và người chung một tâm sự và bị bóc lột như nhau.
Những kẻ khố rách đi giải phóng những kẻ áo lành. Rốt cuộc, Sàigòn tăm
tối, đoạ đầy, thê thảm ngang hàng Hà Nội. Hãy quan sát Hà Nội, thủ đô
của “phẩm cách con người”, “đỉnh cao trí tuệ và tiến bộ”. Hãy tìm cho Hà
Nội một định nghĩa chính xác về hạnh phúc. Vậy đó, những hình ảnh sống
động và đích thực của Hà Nội và đang của Sàigòn dưới mầu cờ kiêu ngạo
ngu xuẩn và sắt máu căm hờn. Vinh hoa của Sàigòn đã bị đẩy ra vỉa hè.
Người mẹ ngồi cau mày trong nắng sớm. Người cha đứng nhăn nhó dưới mưa
chiều. Gửi gì về cho Sàigòn? Một an ủi, một mơ ước hay một hứa hẹn?
Thành phố, cây cỏ, nắng mưa, chim muông, người vật, vỉa hè, góc quán,
gửi gì về? Gửi gì về?
Gửi
gì về cho vừa đủ một quê hương bỏ lại, một quê hương chất ngất sầu đau?
Gửi gì về cho ruộng đồng bát ngát, cho sông nước mênh mông? Gửi gì về
cho con kinh mới đào, cho con lạch vừa khơi? Gửi gì về cho bờ xa, cho
bãi rộng? Gửi gì về cho đồi thấp, cho núi cao? Gửi gì về cho rừng sâu,
cho biển thẳm. Gửi gì về cho lúa vào sữa, cho heo may giải đồng? Gửi gì
về cho hoa bưởi, hoa cau? Gửi gì về cho sầu riêng, măng cụt? Gửi gì về
cho câu hò lan tỏa, cho điệu ru ấm nồng? Gửi gì về cho đường thơm tình
tự, cho ngói đình ái ân, cho nhịp cầu thương nhớ? Gửi gì về? Gửi gì về?
ôi quê hương, chỉ khi khuất xa gần như vĩnh biệt, ta mới biết tương tư
mùi rơm mới, mùi khói đốt đồng, mùi hoa hèn, mùi cỏ dại. Và ta mới thấy
cái đơn giản nhất, cái bình thường nhất đều đã bùi ngùi nhất trên khói
sóng hoàng hôn. Không có nơi nào đẹp hơn quê hương ta. Gửi gì về? Cho
gửi một mơ ước trở lại.
***
Mơ
ước trở lại thắp sáng hồi tưởng. Và bằng hồi tưởng ta về với quê hương
ta. Vùng biển ta đó. Từ cao nhìn xuống. Nha Trang cát trắng với cầu Bóng
huyền thoại. Rừng đồi ta đó. Đà Lạt nên thơ. Này hồ Than Thở. Nọ rừng
Ái Ân. Ta vào trường Võ Bị tìm lại dấu chân cũ, hình bóng xưa của những
chàng trai “vốn giòng hào kiệt”. Những chàng trai ấy, bây giờ, ở đâu.
Hẳn nhiên, nhiều người đã “áo bào thay chiếu anh về đất”, về tận lòng
đất Việt Nam. Để Việt Nam ngạo nghễ muôn đời Nhiều người đã ra đi, mang
theo tâm sự Đặng Dung, chỉ mong sớm về giải thoát non sông kẻo chết già.
Ta rời trường Võ Bị Quốc Gia sang trường Yersin chứa chan kỷ niệm. Ngôi
trường còn đó, buồn bã với cảnh ngộ đổi lốt thay tên. Ngôi trường tự
nhiên mơ mộng, một ngày nào, học trò cũ về làm xôn xao dĩ vãng. Hồi
tưởng cho ta đôi cánh tự do bay. Một thoáng vỗ của hồi tưởng, ta đã ra
công trường Hòa Bình của Đà Lạt mờ cao. Rồi ta lại bay qua đồi, vào thăm
viện Đại Học Đà Lạt kiếm chút an ủi hiện tại hiu hắt. Và ta về, ta về
cùng nắng ấm Sàigòn. Con đò đưa khách sang Thủ Thiêm. Cột cờ Thủ Ngữ
khóc thầm vì vắng bóng lá cờ vàng sọc đỏ thân yêu. Bến Bạch Đằng đó. Phố
Tự Do kia. Tiếng còi tầu nào réo gọi chuyện viễn du. Đợt sóng nào nhắc
nhở vạt hoàng hôn sông khói. Ôi, Sàigòn, một miếng Sàigòn thôi, đã đủ
lòng ta ấm áp phương xa. Tưởng chừng hồn ta đang là đà trên Sàigòn. Hồn
ta là phố phường cũ, là dinh thự xưa. Tự nhiên, ta muốn thầm thì với
Sàigòn: “Em, Sàigòn ra sao? Còn nguyên màu áo, còn nuôi chiêm bao, còn
chờ đợi nhau? Em, đường thương lối nhớ, cỏ cây quá khứ, nhạc chim lời
gió, nước mắt mây mưa, đã mất gì chưa”? Đừng, đừng mất gì cả, bởi vì ta
vẫn mơ một ngày về.
***
Hưng
vong là luật chung của muôn đời. Dâu biển đã xẩy ra cho cả tư tưởng,
nói chi một triều đại, một chế độ hay một chủ nghĩa. Một thi sĩ đã định
nghĩa cái không bao giờ có dâu biển, không bao giờ chết:
Ai cũng chết cả rồi
Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam
Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam
Một thi sĩ khác định nghĩa thêm cái không bao giờ mất:
Me ơi, tha thiết lắm rồi
Mất gì không mất tình người Việt Nam
Mất gì không mất tình người Việt Nam
Người
Việt Nam vĩnh viễn. Tình Việt Nam vĩnh cửu. Đã không mất con người thì
không bao giờ mất quê hương. Và những kỷ niệm thuộc về quê hương cũng
không mất. Còn đó, Sàigòn với Nhà Thờ Đức Bà, với Thảo Cầm Viên, với Bảo
Tàng Viện, với Lăng Ông Bà Chiểu. Còn đó, Huế với bầy phượng vĩ đỏ ối
mùa hè rắc rơi sắc máu trên lối Huế cổ kính, thầm lặng. Còn đó, Huế với
lăng tẩm, điện đài. Còn đó, Huế với “dấu xưa xe ngựa” với “nền cũ lâu
đài”. Còn đó, linh hồn tiền nhân bảng lảng trên lớp rêu phong, trên
những thềm bậc vang bóng một thời. Hỡi tiền nhân bất hủ, có phải người
không chết, người chỉ Tĩnh Tâm dưới hồ sen. Và ý nghĩa sống của người
vẫn vàng thắm nhụy sen, vẫn thơm ngát hoa sen. Ta thèm rung một hồi
chuông Thiên Mụ gọi về những xao xuyến Huế ở mỗi hàng cây, mỗi viên
gạch, mỗi bờ tường, mỗi mái ngói, mỗi vạc đỉnh, mỗi hoa lăn của một
triều đại đã khuất lấp ngậm ngùi. Còn đó, Huế với sông Hương núi Ngự,
với cầu Trường Tiền, cầu Bạch Hổ. Còn đó, Huế với những lá đò dìu nhẹ
trên mặt nước bình yên. Còn đó, Huế với giòng An Cựu “nắng đục mưa
trong” và những con thuyền đêm đêm chở đầy trăng xuôi về Vĩ Dạ.
Sao em không về thăm thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá. xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá. xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Gió theo lối gió mây đường mây
Giòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Giòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có mặn mà
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có mặn mà
Còn
đó, Huế, còn nguyên đó, bờ sông với những cô nàng giặt chiếu, với những
nụ cười thật đẹp, thật thơ. Còn đó sân trường Đồng Khánh bướm trắng
tung bay. Còn đó cổng Viện Đại Học giấc mơ xanh thắm. Còn đó, còn nguyên
đó, khi ta về. Còn đó, Hà Nội với hồ Tây, hồ Trúc Bạch, với con đường
Cổ Ngư thơ mộng thuở học trò. Còn đó đền Quan Thánh. Còn đó đền Ngọc
Sơn, cầu Thê Húc, hồ Gươm, tháp Rùa. Còn đó khu Giảng Võ Văn Miếu, chùa
Một Cột. Còn đó 36 phố phường…
Còn
quê hương Việt Nam. Còn nguyên vẹn. Nếu ta đừng quên và đừng bao giờ
đánh mất tình người Việt Nam, dù đi đến cuối đường oan biệt xứ. Mãi mãi
Việt Nam. Mãi mãi Việt Nam…
7-1986
Sàigòn ra đường
Sài gòn ra đường không áo dài
Em sợ đang mùa gió chướng bay
Gió bay cuốn hút mùi hương cũ
Chỉ để riêng mình ta ngất ngây
Em sợ đang mùa gió chướng bay
Gió bay cuốn hút mùi hương cũ
Chỉ để riêng mình ta ngất ngây
Sài gòn ra đường không phấn son
Em sợ rừng sâu gỗ giận hờn
Chinh phu gió cát nghìn phương lạnh
Chinh phụ nào ham chuyện lược gương
Em sợ rừng sâu gỗ giận hờn
Chinh phu gió cát nghìn phương lạnh
Chinh phụ nào ham chuyện lược gương
Sài gòn ra đường không thích cười
Em sợ đèo cao lệ đá rơi
Nên đã mùa đông về tạm trú
Đã về sương tuyết phủ niềm vui
Em sợ đèo cao lệ đá rơi
Nên đã mùa đông về tạm trú
Đã về sương tuyết phủ niềm vui
Sài gòn ra đường không líu lo
Em sợ âm vang động cõi hờ
Hãy nghe hơi thở còn xao xuyến
Trong đáy hồn nhau gọi ước mơ
Em sợ âm vang động cõi hờ
Hãy nghe hơi thở còn xao xuyến
Trong đáy hồn nhau gọi ước mơ
Sài gòn ra đường không giống ai
Tóc mây lớp lớp khói u hoài
Mắt chim khuyên đã diều hâu hết
Cúi xuống nhìn lên vẫn ngậm ngùi.
Tóc mây lớp lớp khói u hoài
Mắt chim khuyên đã diều hâu hết
Cúi xuống nhìn lên vẫn ngậm ngùi.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire