Hơi Thở Việt
Nam
(Ðể tưởng niệm Trung Tá Cảnh Sát Long, người đã tự sát dưới chân tượng đài Thủy Quân Lục Chiến tại Sài Gòn sáng ngày 30-4-1975)
(Ðể tưởng niệm Trung Tá Cảnh Sát Long, người đã tự sát dưới chân tượng đài Thủy Quân Lục Chiến tại Sài Gòn sáng ngày 30-4-1975)
Hơi Thở Việt Nam
Thơ Trần Trung Đạo - Nhạc Mã Đình Sơn
Tiếng hát Thúy Anh
Thơ Trần Trung Đạo - Nhạc Mã Đình Sơn
Tiếng hát Thúy Anh
Trên đám cỏ này là nơi anh đã nằm
Trên nắm đất này là nơi máu anh đã nhỏ
Ðất vẫn một màu nâu
Cỏ vẫn một màu xanh muôn thuở
Mặt trời mỗi sớm vẫn rọi vào làm lóng lánh những giọt sương
Như đôi mắt sáng của anh
Lần cuối cùng ngửa mặt nhìn tổ quốc yêu thương
Dưới chân tượng đài Thủy Quân Lục Chiến.
Trung Tá Long !
Họ của anh là gì vẫn chưa ai biết
Có phải là Ngô, Ðinh, Lý, Trần hay Lê, Nguyễn…Văn Long ?
Không, tên của anh đã bắt đầu
Từ ở núi, ở rừng, ở biển, ở sông
Ở những câu chuyện thần tiên mẹ thường hay kể
Từ thuở Cha Lạc Long dắt năm mươi con xuống bể
Mẹ Âu Cơ dắt một nửa lên ngàn
Từ thuở bầy chim Lạc chắp cánh bay về vùng nắng ấm phương Nam
Xây tổ bên sông Hồng, sông Cửu.
Tên của anh đã bắt đầu khi con rồng Việt Nam phun lửa đốt rừng dựng nên bờ cõi
Truyền vào lồng ngực anh hơi thở vào đời
Hơi thở Việt Nam hòa trong anh suốt thuở làm người
Sáng ba mươi anh trở về với mẹ
Hồn anh bay giữa trời quê hương
Một màu tang quạnh quẽ
Tổ quốc nghiêng mình tiễn biệt một người con.
Lòng anh đau khi nghe tiếng chiếc xe tăng
Ðang nghiền nát Sài Gòn
Hy vọng chết dưới mỗi lằn xích sắt
Viên đạn Nga bắn vào tim nước Việt
Lưỡi lê Tàu đâm thủng ngực dân Nam.
Ôi ! có bao giờ trong suốt bốn nghìn năm
Mà đất trời quê hương ta buồn như hôm ấy
Những mẹ, những cha, những cụ già, em bé
Ngơ ngác nhìn nhau, sợ hãi, kinh hoàng.
Một chế độ vừa bắt đầu
Bằng hận thù, khủng bố, lầm than
Bằng tiếng xích T54 đay nghiến hồn dân tộc
Xé nát lòng anh bao hờn căm và tủi nhục
Anh đã chọn cho mình một cách chết quang vinh.
Anh ngã xuống giữa Sài Gòn không để lại đủ họ tên
Nhưng lịch sử nghìn năm sau vẫn nhớ.
Trung Tá Long !
Mây vẫn bay trên đầu anh mỗi chiều, mỗi sớm
Mặt trời mọc mỗi ngày làm lóng lánh giọt sương mai
Như nước mắt mẹ già nhỏ xuống xác con trai
Như ánh mắt chị nhìn chồng trong giờ vĩnh biệt
Ðất vẫn một màu nâu đậm đà như tình người dân Việt
Nơi anh nằm hoa cỏ vẫn xanh tươi.
Máu anh rơi để làm đẹp cuộc đời
Tô thắm đường các em sẽ đến
Các em là thuyền nhờ có anh là bến
Trong cuộc hải hành này anh là ngọn hải đăng soi.
Ðường tự do dù còn lắm chông gai
Nhưng đã có anh mang niềm tin đi trước
Cám ơn anh, người con yêu đất nước
Ðã truyền lại cho muôn đời hơi thở Việt Nam.
Trần Trung Ðạo
30.4.1975 Trung Tá CSQG
Nguyễn Văn Long đã chọn một cái chết
không bao giờ chết
Cộng sản
chiếm được miền Nam đã mười năm rồi mà
tôi vẫn còn tiếp tục bị chúng kêu lên,
kêu xuống hỏi cung. Tuy thế, nhờ những
thời gian đợi “đi làm việc” như thế tại
các trại giam như Thanh Liệt ở Hà Nội;
Kho Ðạn, Hội An, và Hòa Sơn ở Quảng Nam;
mà tôi có dịp gặp nhiều cán bộ Việt Cộng
cấp cao bị bắt về tội “kinh tế” hoặc
“tham ô” và cả “bạo loạn” nữa, cũng như
đồng bào nhiều giới phạm tội “phản động
hiện hành,” vượt biên, vượt biển, đưa
hối lộ, xâm phạm hoặc phá hoại tài sản
xã hội chủ nghĩa, vân vân, nên tôi biết
nhiều và biết sớm những biến cố xảy ra
bên ngoài thế giới “cải tạo” hơn các anh
chị em khác trong tù.
Tôi đã nghe tin Trung Tá Nguyễn Văn Long tự tử từ lâu. Nhưng vì có những trường hợp sự thật khác với tin đồn; vả lại, biết đâu đó không là một người khác mà lại trùng tên với người mà tôi thân+thương; hơn nữa, anh Nguyễn Văn Long của tôi là một tín đồ Ky Tô Giáo, lẽ nào lại tự hủy mình; do đó, tôi vừa âm thầm đau khổ về hoàn cảnh chung, vừa bán tín bán nghi về phần anh Long. Ðến khi tôi được nghe thêm hai viên thủ trưởng - một thuộc Cục Xuất Nhập Khẩu 2 tại “thành phố Hồ Chí Minh,” một thuộc Ban Hậu Cần Quân Khu 5 - khẳng định là họ có nghe đề cập trong nội bộ cơ quan rằng, ngoài một số tướng lĩnh miền Nam đã tự sát chứ không chịu đầu hàng hay trốn chạy ra nước ngoài, có một trung tá Cảnh Sát tên Nguyễn Văn Long, từ Ðà Nẵng di tản vào, đã tự tử chết phía trước trụ sở Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa, tôi mới tin chắc đó chính là anh Nguyễn Văn Long.
Anh Long vĩnh biệt cõi đời giữa cảnh lửa bỏng dầu sôi, bạn bè nói riêng và đồng bào nói chung thì còn bận lo tự cứu lấy mình, trong khi kẻ thù thì càng thù hận anh thêm, lấy đâu có những vòng hoa và những nén nhang cùng những dòng lệ thương tiếc tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Năm 1982, tại trại bí mật Thanh Liệt, thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội, là nơi giam cứu các phần tử quan trọng nhất, mà đa số là cán bộ đảng, nhà nước và bộ đội ở cấp trung ương, do Bộ Nội Vụ trực tiếp quản lý, tôi mới được một “bạn tù” cho biết thêm một chi tiết quý báu về cái chết hùng vinh của Trung Tá Nguyễn Văn Long. Ðó là Phạm Trung Linh, một trung tá bộ đội Bắc Việt, nguyên trưởng Tiểu Ban Thanh Tra & Xét Khiếu Tố thuộc Trung Ương Cục Miền Nam - tổng thư ký của một tổ chức đảo chính quân sự dự định hành động vào đêm 24 rạng ngày Nô En năm 1979 nhưng bất thành nên bị bắt cùng với một số tướng, tá và cán bộ cao cấp khác - xác nhận rằng gã đã có trông thấy bức ảnh chụp cảnh Trung Tá Nguyễn Văn Long mặc cảnh phục chỉnh tề nằm chết trước một tượng đài Chiến Sĩ Quốc Gia phía trước trụ sở Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa, in trên bìa trước của một tạp chí Hoa Kỳ, trong kho sách báo ngoại quốc mà Việt Cộng ở một số cấp cao đã sưu tầm để nghiên cứu những gì có liên quan đến Việt Nam.
Thế là từ đó không những tôi nguôi tủi sầu mà trái lại còn cảm thấy lòng mình vui thỏa cho anh Long. Báo Mỹ mà đã đăng lên thì khắp thế giới đều biết. Anh, cùng với những vị anh hùng tuẫn quốc khác trong biến cố lịch sử 30 tháng 4, 1975, đã nói lên được hùng hồn và cụ thể tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam yêu chuộng tự do trước quyền lực của cộng sản bạo tàn.
Tôi đã nghe tin Trung Tá Nguyễn Văn Long tự tử từ lâu. Nhưng vì có những trường hợp sự thật khác với tin đồn; vả lại, biết đâu đó không là một người khác mà lại trùng tên với người mà tôi thân+thương; hơn nữa, anh Nguyễn Văn Long của tôi là một tín đồ Ky Tô Giáo, lẽ nào lại tự hủy mình; do đó, tôi vừa âm thầm đau khổ về hoàn cảnh chung, vừa bán tín bán nghi về phần anh Long. Ðến khi tôi được nghe thêm hai viên thủ trưởng - một thuộc Cục Xuất Nhập Khẩu 2 tại “thành phố Hồ Chí Minh,” một thuộc Ban Hậu Cần Quân Khu 5 - khẳng định là họ có nghe đề cập trong nội bộ cơ quan rằng, ngoài một số tướng lĩnh miền Nam đã tự sát chứ không chịu đầu hàng hay trốn chạy ra nước ngoài, có một trung tá Cảnh Sát tên Nguyễn Văn Long, từ Ðà Nẵng di tản vào, đã tự tử chết phía trước trụ sở Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa, tôi mới tin chắc đó chính là anh Nguyễn Văn Long.
Anh Long vĩnh biệt cõi đời giữa cảnh lửa bỏng dầu sôi, bạn bè nói riêng và đồng bào nói chung thì còn bận lo tự cứu lấy mình, trong khi kẻ thù thì càng thù hận anh thêm, lấy đâu có những vòng hoa và những nén nhang cùng những dòng lệ thương tiếc tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng.
Năm 1982, tại trại bí mật Thanh Liệt, thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội, là nơi giam cứu các phần tử quan trọng nhất, mà đa số là cán bộ đảng, nhà nước và bộ đội ở cấp trung ương, do Bộ Nội Vụ trực tiếp quản lý, tôi mới được một “bạn tù” cho biết thêm một chi tiết quý báu về cái chết hùng vinh của Trung Tá Nguyễn Văn Long. Ðó là Phạm Trung Linh, một trung tá bộ đội Bắc Việt, nguyên trưởng Tiểu Ban Thanh Tra & Xét Khiếu Tố thuộc Trung Ương Cục Miền Nam - tổng thư ký của một tổ chức đảo chính quân sự dự định hành động vào đêm 24 rạng ngày Nô En năm 1979 nhưng bất thành nên bị bắt cùng với một số tướng, tá và cán bộ cao cấp khác - xác nhận rằng gã đã có trông thấy bức ảnh chụp cảnh Trung Tá Nguyễn Văn Long mặc cảnh phục chỉnh tề nằm chết trước một tượng đài Chiến Sĩ Quốc Gia phía trước trụ sở Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa, in trên bìa trước của một tạp chí Hoa Kỳ, trong kho sách báo ngoại quốc mà Việt Cộng ở một số cấp cao đã sưu tầm để nghiên cứu những gì có liên quan đến Việt Nam.
Thế là từ đó không những tôi nguôi tủi sầu mà trái lại còn cảm thấy lòng mình vui thỏa cho anh Long. Báo Mỹ mà đã đăng lên thì khắp thế giới đều biết. Anh, cùng với những vị anh hùng tuẫn quốc khác trong biến cố lịch sử 30 tháng 4, 1975, đã nói lên được hùng hồn và cụ thể tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam yêu chuộng tự do trước quyền lực của cộng sản bạo tàn.
***
Thuở ấy, vào khoảng 1950, ở miền Trung
có hai hệ thống an ninh: một bên là Pháp
với cơ quan Sûreté Fédérale (Liêm Phóng
Liên Bang) và Police française
(Cảnh Sát
Pháp), một bên là Việt Nam với cơ quan
Công An & Cảnh Sát Quốc Gia. Anh Nguyễn
Văn Long tùng sự bên Sûreté Fédérale (chính
trị)
của Pháp, trong số vài người phụ
trách nội ô Thần Kinh; còn tôi thì bên
Cảnh Sát (hình sự)
của Việt Nam. Tôi
kiêm cả việc sáng tác, ra báo, và dựng
kịch cho sở làm, và cho riêng mình.
Chúng tôi thường uống cà phê ở quán Lạc Sơn, nhà hàng lộ thiên trên lề đại lộ Trần Hưng Ðạo, quay lưng vào chợ Ðông Ba.
Nhân viên hai bên không ưa gì nhau, nhưng gặp mặt mãi cũng thành quen nhau.
Dạo ấy, tôi viết cuốn truyện “Trai Thời Loạn” chống Pháp xâm lược và Bảo Ðại bù nhìn, nên bị bắt giam; sau nhờ phái đoàn của các nhân sĩ Cao Văn Tường, Cao Văn Chiểu, cùng với nhà báo Phạm Bá Nguyên và cả Giám Ðốc Thông Tin Lê Tảo can thiệp với Thủ Hiến Phan Văn Giáo, tôi mới được trả tự do. Ra tù, tự nhiên tôi được thiện cảm của nhiều người hơn.
Một hôm, anh Long tâm sự với tôi: “Tôi chống Việt Minh nên lỡ vào làm với Tây; nay tôi đã quyết sẽ thôi để qua làm với người mình.”
Anh ít nói, không văn hoa, lại lớn tuổi hơn tôi nhiều, mà đã nói thẳng với tôi như thế thì tôi hiểu rằng anh đã đau lòng khổ trí đến ngần nào trước thời cuộc bấp bênh của nước nhà. Trong thời gian chờ đợi, anh Long đã nghe theo lời thuyết phục của tôi, bỏ qua cho nhiều bạn thơ của tôi, thí dụ Nhất Hiên, Vân Sơn PMT, Như Trị, v.v... mà Sureté Fédérale đã định bắt giam. Liêm Phóng Liên Bang của Pháp mà đã bắt ai thì người ấy khó về được vẹn toàn.
Sau đó, anh đã chuyển qua công an Việt Nam; và Vân Sơn Phan Mỹ Trúc cũng như Như Trị Bùi Chánh Thời thì vào Sài Gòn; kẻ thành ký giả tên tuổi, người nên luật sư tài danh.
Sau khi gia nhập vào đúng hàng ngũ thích hợp để phụng thờ chính nghĩa quốc gia, trải qua mấy chục năm trời gắn bó với Lực Lượng Cảnh Sát & Công An Việt Nam Cộng Hòa, anh Nguyễn Văn Long tận tụy phục vụ, và đã nổi tiếng là một trong số những cấp chỉ huy tích cực, cương trực và liêm khiết nhất trong ngành.
Chúng tôi thường uống cà phê ở quán Lạc Sơn, nhà hàng lộ thiên trên lề đại lộ Trần Hưng Ðạo, quay lưng vào chợ Ðông Ba.
Nhân viên hai bên không ưa gì nhau, nhưng gặp mặt mãi cũng thành quen nhau.
Dạo ấy, tôi viết cuốn truyện “Trai Thời Loạn” chống Pháp xâm lược và Bảo Ðại bù nhìn, nên bị bắt giam; sau nhờ phái đoàn của các nhân sĩ Cao Văn Tường, Cao Văn Chiểu, cùng với nhà báo Phạm Bá Nguyên và cả Giám Ðốc Thông Tin Lê Tảo can thiệp với Thủ Hiến Phan Văn Giáo, tôi mới được trả tự do. Ra tù, tự nhiên tôi được thiện cảm của nhiều người hơn.
Một hôm, anh Long tâm sự với tôi: “Tôi chống Việt Minh nên lỡ vào làm với Tây; nay tôi đã quyết sẽ thôi để qua làm với người mình.”
Anh ít nói, không văn hoa, lại lớn tuổi hơn tôi nhiều, mà đã nói thẳng với tôi như thế thì tôi hiểu rằng anh đã đau lòng khổ trí đến ngần nào trước thời cuộc bấp bênh của nước nhà. Trong thời gian chờ đợi, anh Long đã nghe theo lời thuyết phục của tôi, bỏ qua cho nhiều bạn thơ của tôi, thí dụ Nhất Hiên, Vân Sơn PMT, Như Trị, v.v... mà Sureté Fédérale đã định bắt giam. Liêm Phóng Liên Bang của Pháp mà đã bắt ai thì người ấy khó về được vẹn toàn.
Sau đó, anh đã chuyển qua công an Việt Nam; và Vân Sơn Phan Mỹ Trúc cũng như Như Trị Bùi Chánh Thời thì vào Sài Gòn; kẻ thành ký giả tên tuổi, người nên luật sư tài danh.
Sau khi gia nhập vào đúng hàng ngũ thích hợp để phụng thờ chính nghĩa quốc gia, trải qua mấy chục năm trời gắn bó với Lực Lượng Cảnh Sát & Công An Việt Nam Cộng Hòa, anh Nguyễn Văn Long tận tụy phục vụ, và đã nổi tiếng là một trong số những cấp chỉ huy tích cực, cương trực và liêm khiết nhất trong ngành.
***
Tôi về lại miền Trung đảm trách giám đốc
Ngành Ðặc Cảnh tại Bộ Tư Lệnh Cảnh Lực
Vùng I vào ngày 26 tháng 9 năm 1973. Tìm
gặp lại các bạn cũ, thuộc lứa tuổi trên
tứ tuần, đã từng giữ các chức vụ trưởng
ty Công An, cảnh sát trưởng, trưởng ty
CSQG trở lên, từ thời Bảo Ðại qua thời
Ðệ Nhất Cộng Hòa đến nay, mà hiện còn
lại tại vùng này, tôi thấy chỉ có 6
người, trong đó có anh Nguyễn Văn Long.
Một số chưa có chức vụ tương xứng thì tôi nâng lên hoặc hợp thức hóa cho làm phó giám đốc, chánh sở. Anh Long thì đã là một chánh sở nắm Sở Tư Pháp rồi, nên tôi không giúp gì về chức vụ mà chỉ giúp về công vụ mà thôi; những tin tức về hình sự mà tôi có được, thay vì xếp bỏ thì tôi chuyển qua cho anh. Tuy nhiên, đáp lại, chính anh giúp tôi nhiều hơn, rất nhiều, cả trong công tác cụ thể hằng ngày lẫn về phương diện tinh thần.
Anh Long tự nguyện làm thêm nhiệm vụ chính trị - diệt Cộng - ngoài phần vụ chính của anh là truy lùng kẻ phạm pháp về mặt hình. Là một tay cừ trong giới tình báo cũ, anh đã nhận làm công tác sưu tầm về hình phạm mà thu thập thêm tin tức về quốc phạm, và đã cung cấp cho ngành Ðặc Cảnh của tôi nhiều manh mối về cộng sản nằm vùng. Theo anh quan niệm, đã là Cảnh Sát Quốc Gia, với chức năng an ninh trật tự, thì phải góp phần trực tiếp hoặc gián tiếp vào lãnh vực tình báo, để phát hiện và loại trừ cộng sản - mà trong giai đoạn hiện tại thì đối tượng Việt Cộng phải là ưu tiên hàng đầu - để bảo vệ và duy trì an ninh và trật tự chung. Anh không thể chỉ tự bằng lòng với phận sự tiễu trừ tội phạm xã hội, mà phải tham gia phần nào, trong khả năng mình, vào trách nhiệm thanh trừng giặc loạn để giữ nước và cứu dân.
Qua thái độ và hành động chính đáng của mình, trung tá Nguyễn Văn Long đã mặc nhiên gửi một thông điệp, một lời nhắn nhe tâm huyết, đến những anh chị em đồng nghiệp nào mà vì lý do nào đó đã tự cho mình là Cảnh Sát Sắc Phục thì không dính dấp gì về tình báo, nhất là Cộng Tặc Miền Nam và Cộng Sản Bắc Việt xâm lăng.
Trung Tâm Huấn Luyện Tình Báo của tôi nằm trên bãi biển Sơn Chà, tuốt bên kia bờ Hàn Giang. Lần nào khai giảng hoặc bế giảng khóa nào nhà trường cũng đều có mời các cấp chỉ huy cả Ðặc Cảnh lẫn Sắc Phục đến dự. Về sau, tôi bỏ bớt tiệc mãn khóa, chấm dứt tình trạng bắt các học viên góp tiền. Không còn tiệc tùng, thì phần lớn quan khách ngớt vãng lai, viện cớ bận việc và đường quá xa; nhưng anh Long vẫn tiếp tục đến dự - anh nói - để yểm trợ tinh thần chung.
Anh thăng cấp trước tôi, nhưng bao giờ cũng ý tứ nhường tôi về ngôi thứ đứng+ngồi, nhất là trong các cuộc họp chính thức có các cấp dưới từ các nơi về, vì chức vị anh thấp hơn. Anh nói: “Mình phải nêu gương kỷ luật cho thuộc viên, mà mấu chốt của kỷ luật là tôn ti.”
Về mặt tư pháp, Trung Tá Nguyễn Văn Long đã thực hiện đúng khẩu hiệu “pháp bất vị thân.” Ngay đối với chính đồng nghiệp, bất cứ nhân viên cảnh sát nào mà phạm tội hình sự là anh truy tố ra tòa thẳng tay - anh nói - để lành mạnh hóa nội bộ, và nêu gương thượng tôn luật pháp cho người dân. Bởi thế, anh bị nhiều người gọi bằng cái tên “Long Lý,” ý nói anh chỉ biết chiếu lý chứ không vị tình.
Sau Hiệp Ðịnh Paris 1973, tình hình xã hội miền Nam thật là rối ren. Bên ngoài thì Cộng Sản Bắc Việt công khai ồ ạt đổ thêm quân và chiến cụ, vũ khí vào tấn công ta; bên trong thì các tổ chức xưng danh đối lập và lợi dụng tự do quá khích, tiếp tay với các phần tử nằm vùng, ngày càng gia tăng mức độ và cường độ gây hỗn loạn trật tự và làm suy thoái tinh thần các lực lượng quốc gia. Về mặt chính trị, Cảnh sát Quốc Gia vừa phải đối phó với các bộ phận đảng, mặt trận, nhà nước và nhân dân của cộng sản xâm lăng và “Việt Cộng,” vừa phải chống đỡ các phần tử, phe nhóm chủ bại và nội ứng cho kẻ thù.
Về mặt tệ đoan xã hội, ung nhọt tràn lan khắp nơi. Riêng về nạn dịch nhũng nhiễu tham lam, công tác đương đầu đã gặp quá nhiều khó khăn. Hầu như kẻ nào làm bậy cũng đều nấp dưới danh nghĩa của một chính đảng, tìm sự che chở của một đoàn thể hay một số cấp lãnh đạo nào đó trong chính quyền. Ðụng vào họ, dù họ là kẻ phạm pháp, có thể là tự rước lấy tai họa vào mình. Thế mà anh Long đã dám xúc tiến điều tra, lập hồ sơ truy tố nhiều nhân vật đáng sợ. Nhiều vụ lắm. Và vụ mà tôi thích nhất là vụ “Tiền trợ cấp dân Quảng Trị tị nạn.” Ðại khái như sau:
Ðầu năm 1975, đồng bào từ tỉnh Quảng Trị bắt đầu di tản. Chính quyền trung ương tổ chức đón tiếp và cứu trợ họ tại trại tạm cư Ðà Nẵng. Trên thực tế, có người đã vào, có người vẫn còn ở lại ngoài kia. Do đó, có một tổ chức quy mô đứng ra lập hồ sơ ma để lãnh các món cứu trợ di tản nhiều hơn bội phần: tiền mặt, thực phẩm, thuốc men, áo quần, giường mùng chăn chiếu, xi măng, tôn, v.v... cấp cho cả đồng bào ở trại lẫn đồng bào vẫn còn ở tỉnh cũ mà được chứng nhận là đã nhập trại tạm cư, do ngân sách của Bộ Xã Hội đài thọ. Thậm chí, họ còn lập thêm hồ sơ theo diện tị nạn, dành cho đồng bào dời cư từ các xã bất an và xôi đậu đến định cư tại các xã an ninh, để lãnh thêm loại trợ cấp này vốn áp dụng chung cho bất cứ vùng quê nào. Chưa thỏa, họ còn chứng nhận cho cũng những đồng bào ấy là nguyên cơ sở của Việt Cộng ở vùng địch kiểm soát, nay bỏ kẻ thù về với quốc gia, để hưởng các khoản trợ cấp loại này do Bộ Chiêu Hồi cung cấp định kỳ, v.v... Ngoài ra, người dân di tản cũng bị lôi cuốn vào tình trạng hỗn tạp chung bên ngoài trại, lẫn lộn giữa hợp pháp và bất hợp pháp. Một số trở thành nhân viên Chương Trình Áo Xanh, do một tổ chức xã hội Hoa Kỳ tài trợ, cung cấp việc làm cho người lao động thất nghiệp. Một số cũng là hội viên Hội Cựu Chiến Binh và Dân Phế, quy tụ lính cũ đâu từ thời Pháp thuộc, thời Nhật chiếm, thời kháng Pháp, thời Bảo Ðại, và nạn nhân các vụ tai nạn lưu thông, ẩu đả, hủy hoại thân thể, tàn tật bẩm sinh, vân vân, nhưng cũng được lập hồ sơ và lãnh đều đều từ một tổ chức nhân đạo Hoa Kỳ những món viện trợ tiền mặt, thực phẩm, thuốc men, đồ dùng, v.v... Hơn nữa, một số giả danh là thương phế binh, cưỡng thu “hụi chết” tại các hàng quán, bến xe. Phanh phui vụ này lòi ra vụ kia. Tóm lại, một người lãnh nhiều trợ cấp với nhiều tư cách trong nhiều hoàn cảnh khác nhau; nhưng chỉ lãnh được một ít, còn thì nạp vào túi riêng của bọn gian tham.
Vụ án đã làm chấn động dư luận, vì dính đến nhiều cấp chức thuộc nhiều giới, ngành, từ cấp tổ, toán, khóm, thôn, xã, phường, lên đến quận, tỉnh, vào thấu Sài Gòn, là những phần tử chứng nhận láo, chấp thuận bừa, do đó, đã phí phạm công quỹ và phá hoại chính sách của trung ương.
Trong việc móc nối đầu mối, nuôi dưỡng đường dây, lắm lúc nhân viên Ðặc Cảnh phải giao tiếp với những kẻ bất lương. Bởi thế, đã có một số trưởng mối bị trừng phạt oan, vì phía Hình Cảnh nghi là đồng lõa hay đỡ đầu. Sau khi có thêm bộ phận An Ninh Cảnh Lực, Ðặc Cảnh càng gặp nhiều khó khăn hơn, đến nỗi Tư Lệnh Ðặc Cảnh Trung Ương hồi đó là đại tá Nguyễn Mâu đã phải lên tiếng phản đối công khai trước một đại hội toàn quốc, do Tổng Giám Ðốc chủ tọa, nhưng chưa ngã ngũ ra sao.
Với tôi, anh Long đã chịu nhượng bộ: nếu gặp nhân viên Ðặc Cảnh liên can đến các vụ hình, anh để tùy tôi xét trước, để tránh oan ức, trở ngại cho công tác chìm. Ấy là nhờ anh hiểu rõ phương thức tình báo và đặt nhu cầu chống Cộng lên hàng ưu tiên. Ðó là quyết định linh động duy nhất trong cương vị Chánh Sở Tư Pháp của anh Long.
Một số chưa có chức vụ tương xứng thì tôi nâng lên hoặc hợp thức hóa cho làm phó giám đốc, chánh sở. Anh Long thì đã là một chánh sở nắm Sở Tư Pháp rồi, nên tôi không giúp gì về chức vụ mà chỉ giúp về công vụ mà thôi; những tin tức về hình sự mà tôi có được, thay vì xếp bỏ thì tôi chuyển qua cho anh. Tuy nhiên, đáp lại, chính anh giúp tôi nhiều hơn, rất nhiều, cả trong công tác cụ thể hằng ngày lẫn về phương diện tinh thần.
Anh Long tự nguyện làm thêm nhiệm vụ chính trị - diệt Cộng - ngoài phần vụ chính của anh là truy lùng kẻ phạm pháp về mặt hình. Là một tay cừ trong giới tình báo cũ, anh đã nhận làm công tác sưu tầm về hình phạm mà thu thập thêm tin tức về quốc phạm, và đã cung cấp cho ngành Ðặc Cảnh của tôi nhiều manh mối về cộng sản nằm vùng. Theo anh quan niệm, đã là Cảnh Sát Quốc Gia, với chức năng an ninh trật tự, thì phải góp phần trực tiếp hoặc gián tiếp vào lãnh vực tình báo, để phát hiện và loại trừ cộng sản - mà trong giai đoạn hiện tại thì đối tượng Việt Cộng phải là ưu tiên hàng đầu - để bảo vệ và duy trì an ninh và trật tự chung. Anh không thể chỉ tự bằng lòng với phận sự tiễu trừ tội phạm xã hội, mà phải tham gia phần nào, trong khả năng mình, vào trách nhiệm thanh trừng giặc loạn để giữ nước và cứu dân.
Qua thái độ và hành động chính đáng của mình, trung tá Nguyễn Văn Long đã mặc nhiên gửi một thông điệp, một lời nhắn nhe tâm huyết, đến những anh chị em đồng nghiệp nào mà vì lý do nào đó đã tự cho mình là Cảnh Sát Sắc Phục thì không dính dấp gì về tình báo, nhất là Cộng Tặc Miền Nam và Cộng Sản Bắc Việt xâm lăng.
Trung Tâm Huấn Luyện Tình Báo của tôi nằm trên bãi biển Sơn Chà, tuốt bên kia bờ Hàn Giang. Lần nào khai giảng hoặc bế giảng khóa nào nhà trường cũng đều có mời các cấp chỉ huy cả Ðặc Cảnh lẫn Sắc Phục đến dự. Về sau, tôi bỏ bớt tiệc mãn khóa, chấm dứt tình trạng bắt các học viên góp tiền. Không còn tiệc tùng, thì phần lớn quan khách ngớt vãng lai, viện cớ bận việc và đường quá xa; nhưng anh Long vẫn tiếp tục đến dự - anh nói - để yểm trợ tinh thần chung.
Anh thăng cấp trước tôi, nhưng bao giờ cũng ý tứ nhường tôi về ngôi thứ đứng+ngồi, nhất là trong các cuộc họp chính thức có các cấp dưới từ các nơi về, vì chức vị anh thấp hơn. Anh nói: “Mình phải nêu gương kỷ luật cho thuộc viên, mà mấu chốt của kỷ luật là tôn ti.”
Về mặt tư pháp, Trung Tá Nguyễn Văn Long đã thực hiện đúng khẩu hiệu “pháp bất vị thân.” Ngay đối với chính đồng nghiệp, bất cứ nhân viên cảnh sát nào mà phạm tội hình sự là anh truy tố ra tòa thẳng tay - anh nói - để lành mạnh hóa nội bộ, và nêu gương thượng tôn luật pháp cho người dân. Bởi thế, anh bị nhiều người gọi bằng cái tên “Long Lý,” ý nói anh chỉ biết chiếu lý chứ không vị tình.
Sau Hiệp Ðịnh Paris 1973, tình hình xã hội miền Nam thật là rối ren. Bên ngoài thì Cộng Sản Bắc Việt công khai ồ ạt đổ thêm quân và chiến cụ, vũ khí vào tấn công ta; bên trong thì các tổ chức xưng danh đối lập và lợi dụng tự do quá khích, tiếp tay với các phần tử nằm vùng, ngày càng gia tăng mức độ và cường độ gây hỗn loạn trật tự và làm suy thoái tinh thần các lực lượng quốc gia. Về mặt chính trị, Cảnh sát Quốc Gia vừa phải đối phó với các bộ phận đảng, mặt trận, nhà nước và nhân dân của cộng sản xâm lăng và “Việt Cộng,” vừa phải chống đỡ các phần tử, phe nhóm chủ bại và nội ứng cho kẻ thù.
Về mặt tệ đoan xã hội, ung nhọt tràn lan khắp nơi. Riêng về nạn dịch nhũng nhiễu tham lam, công tác đương đầu đã gặp quá nhiều khó khăn. Hầu như kẻ nào làm bậy cũng đều nấp dưới danh nghĩa của một chính đảng, tìm sự che chở của một đoàn thể hay một số cấp lãnh đạo nào đó trong chính quyền. Ðụng vào họ, dù họ là kẻ phạm pháp, có thể là tự rước lấy tai họa vào mình. Thế mà anh Long đã dám xúc tiến điều tra, lập hồ sơ truy tố nhiều nhân vật đáng sợ. Nhiều vụ lắm. Và vụ mà tôi thích nhất là vụ “Tiền trợ cấp dân Quảng Trị tị nạn.” Ðại khái như sau:
Ðầu năm 1975, đồng bào từ tỉnh Quảng Trị bắt đầu di tản. Chính quyền trung ương tổ chức đón tiếp và cứu trợ họ tại trại tạm cư Ðà Nẵng. Trên thực tế, có người đã vào, có người vẫn còn ở lại ngoài kia. Do đó, có một tổ chức quy mô đứng ra lập hồ sơ ma để lãnh các món cứu trợ di tản nhiều hơn bội phần: tiền mặt, thực phẩm, thuốc men, áo quần, giường mùng chăn chiếu, xi măng, tôn, v.v... cấp cho cả đồng bào ở trại lẫn đồng bào vẫn còn ở tỉnh cũ mà được chứng nhận là đã nhập trại tạm cư, do ngân sách của Bộ Xã Hội đài thọ. Thậm chí, họ còn lập thêm hồ sơ theo diện tị nạn, dành cho đồng bào dời cư từ các xã bất an và xôi đậu đến định cư tại các xã an ninh, để lãnh thêm loại trợ cấp này vốn áp dụng chung cho bất cứ vùng quê nào. Chưa thỏa, họ còn chứng nhận cho cũng những đồng bào ấy là nguyên cơ sở của Việt Cộng ở vùng địch kiểm soát, nay bỏ kẻ thù về với quốc gia, để hưởng các khoản trợ cấp loại này do Bộ Chiêu Hồi cung cấp định kỳ, v.v... Ngoài ra, người dân di tản cũng bị lôi cuốn vào tình trạng hỗn tạp chung bên ngoài trại, lẫn lộn giữa hợp pháp và bất hợp pháp. Một số trở thành nhân viên Chương Trình Áo Xanh, do một tổ chức xã hội Hoa Kỳ tài trợ, cung cấp việc làm cho người lao động thất nghiệp. Một số cũng là hội viên Hội Cựu Chiến Binh và Dân Phế, quy tụ lính cũ đâu từ thời Pháp thuộc, thời Nhật chiếm, thời kháng Pháp, thời Bảo Ðại, và nạn nhân các vụ tai nạn lưu thông, ẩu đả, hủy hoại thân thể, tàn tật bẩm sinh, vân vân, nhưng cũng được lập hồ sơ và lãnh đều đều từ một tổ chức nhân đạo Hoa Kỳ những món viện trợ tiền mặt, thực phẩm, thuốc men, đồ dùng, v.v... Hơn nữa, một số giả danh là thương phế binh, cưỡng thu “hụi chết” tại các hàng quán, bến xe. Phanh phui vụ này lòi ra vụ kia. Tóm lại, một người lãnh nhiều trợ cấp với nhiều tư cách trong nhiều hoàn cảnh khác nhau; nhưng chỉ lãnh được một ít, còn thì nạp vào túi riêng của bọn gian tham.
Vụ án đã làm chấn động dư luận, vì dính đến nhiều cấp chức thuộc nhiều giới, ngành, từ cấp tổ, toán, khóm, thôn, xã, phường, lên đến quận, tỉnh, vào thấu Sài Gòn, là những phần tử chứng nhận láo, chấp thuận bừa, do đó, đã phí phạm công quỹ và phá hoại chính sách của trung ương.
Trong việc móc nối đầu mối, nuôi dưỡng đường dây, lắm lúc nhân viên Ðặc Cảnh phải giao tiếp với những kẻ bất lương. Bởi thế, đã có một số trưởng mối bị trừng phạt oan, vì phía Hình Cảnh nghi là đồng lõa hay đỡ đầu. Sau khi có thêm bộ phận An Ninh Cảnh Lực, Ðặc Cảnh càng gặp nhiều khó khăn hơn, đến nỗi Tư Lệnh Ðặc Cảnh Trung Ương hồi đó là đại tá Nguyễn Mâu đã phải lên tiếng phản đối công khai trước một đại hội toàn quốc, do Tổng Giám Ðốc chủ tọa, nhưng chưa ngã ngũ ra sao.
Với tôi, anh Long đã chịu nhượng bộ: nếu gặp nhân viên Ðặc Cảnh liên can đến các vụ hình, anh để tùy tôi xét trước, để tránh oan ức, trở ngại cho công tác chìm. Ấy là nhờ anh hiểu rõ phương thức tình báo và đặt nhu cầu chống Cộng lên hàng ưu tiên. Ðó là quyết định linh động duy nhất trong cương vị Chánh Sở Tư Pháp của anh Long.
***
Kỷ niệm đậm nét nhất trong đời tôi về
anh Long là vụ rút lui ra khỏi Ðà Nẵng,
thành lũy cuối cùng của Quân Khu I Việt
Nam Cộng Hòa. Lúc ấy vào khoảng 10 giờ
tối ngày 28 tháng 3, 1975.
Trên máy vô tuyến truyền tin thuộc hệ Cảnh Sát Sắc Phục nội thành Ðà Nẵng, tôi nghe một đài gọi đài trung ương, nhưng không có ai trả lời. Lát sau, có một đài khác cất tiếng: “Ðừng gọi vô ích, bọn chúng chạy hết cả rồi!” Tôi bèn hỏi đài hồi nãy, thì được báo cáo là có nhiều người ăn mặc lộn xộn, vũ khí cầm tay, đang nép hai bên lề đường từ hướng Hòa Cường tiến vào.
Tôi dùng làn sóng của hệ Ðặc Cảnh ra lệnh cho Sở Tác Vụ Vùng và Sở Ðặc Cảnh sở tại đối phó, đồng thời gọi máy điện thoại cho đại tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư Lệnh Cảnh Lực Vùng I, lúc ấy đang cùng có mặt với các Chánh Sở Vùng và một số Chỉ Huy Cảnh Lực Tỉnh tập trung tại đây.
Lát sau, anh Long đến ngồi tại phòng truyền tin của Ngành Ðặc Cảnh Vùng nơi đây có máy âm thoại của cả 2 hệ nổi chìm địa phương lẫn hệ toàn quốc, và máy điện thoại bưu điện, điện thoại quân sự cách dăm mười phút lại gọi hỏi tôi tình hình thế nào.
Vì máy quá bận, tôi khuyên anh vào phòng giấy của Ðại Tá Lộc để cùng theo dõi diễn biến tình hình chung.
Khoảng sau 11 giờ đêm, từ đài Ðặc Cảnh Vùng I trung tá Long gọi tôi. Lần nầy tôi nghe giọng anh run lên, lời lẽ trịnh trọng khác thường: “Tôi xin mời ông phụ tá đến ngay để tổ chức phòng tuyến và chỉ huy đội ngũ tử thủ cùng với anh em chúng tôi!” (Tử thủ là lời cam kết của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đọc trên Ðài Phát Thanh Ðà Nẵng suốt chiều hôm nay).
Tôi hỏi về Ðại Tá Lộc thì anh đáp gọn với giọng bực tức và chán chường: “Các ngài đào ngũ hết rồi!”
Anh Long kể lại với tôi là anh được lệnh, cùng với mọi người có mặt tại trụ sở Vùng - chánh sở các sở, chỉ huy của một số tỉnh, có cả mấy viên đại tá quân đội - theo Ðại Tá Lộc xuống bến Giang Cảnh, lên tàu Giang Cảnh, rời bến hướng ra biển Ðông.
Anh hỏi đi đâu thì Ðại Tá Lộc trả lời: “Chúng ta di tản vào Nam!” Anh thấy máu uất xông lên đỉnh đầu, la lên: “Giặc chưa tấn công, thuộc viên vẫn còn ở lại, mà cấp chỉ huy đã lén lút bỏ đi như thế này là hèn!” Lộc cố giải thích: “Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn đã rút đi rồi. Trong tình huống này chúng ta đành phải phụ lòng anh em mà thôi!” Long bèn rút súng, nhìn thẳng vào mặt từng người với vẻ khinh thường, và bảo tàu ghé vào bờ cho anh trở lui.
Và anh đã về trụ sở, để cùng chiến đấu, sống chết có nhau với anh em.
Tôi tin tưởng và kính phục anh Long vô cùng; nhưng tôi thấy rõ là nếu đến sở thì sẽ dính kẹt ở đó, khó lòng điều động hoạt động bên ngoài, nên nói là tôi bận họp. Anh xin mượn tôi một máy vô tuyến cầm tay, và đòi đến họp với tôi.
Tôi kéo Thiếu Tá Ngô Phi Ðạm, chánh Sở Tác Vụ, ra xe. Ðến bến Bạch Ðằng quả thấy xe Jeep xanh trắng và ô liu bỏ đậu nghênh ngang; gọi máy vô tuyến trên hệ Sắc Phục đến đại tá Lộc ở sở, ở nhà, không ai trả lời; tôi bèn chỉ thị Trung Tâm Hành Quân Ðặc Cảnh báo cáo sự việc lên trung ương.
Anh Long đã đến nhà tôi, hỏi tôi ở đâu, tôi đáp là đến Ðặc Khu, nhưng tôi đến Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn; nơi đây vắng hoe. Anh hỏi, tôi đáp là vào phi trường, nhưng tôi đến Sở An Ninh Quân Ðội; nơi đây cũng chẳng còn ai. Anh không gặp tôi, lại hỏi; và tôi lại dối, tránh anh. Cứ thế mà tôi đến khắp các nơi vốn là chỗ dựa cho niềm tin của dân nhân.
Ðến sau nửa đêm thì cả thành phố đổ dồn qua cầu Trịnh Minh Thế để qua bến cảng, bãi biển Quận III, để mong chạy vào Sài Gòn. Tôi cùng Tác Vụ, Thám Sát Ðặc Biệt, quan sát xong tình hình bên đó, len lách trở về thì thoáng dưới ánh đèn pha thấy rõ hình dáng của anh, mặc cảnh chiến phục, gác khẩu M 16 ngang đùi, mặt mày đỏ gay, tức uất nhưng đầy cương nghị, lái xe vụt qua.
Ðó là hình ảnh cuối cùng của Trung Tá Nguyễn Văn Long, mãi mãi hằn sâu trong ký ức tôi.
Trên máy vô tuyến truyền tin thuộc hệ Cảnh Sát Sắc Phục nội thành Ðà Nẵng, tôi nghe một đài gọi đài trung ương, nhưng không có ai trả lời. Lát sau, có một đài khác cất tiếng: “Ðừng gọi vô ích, bọn chúng chạy hết cả rồi!” Tôi bèn hỏi đài hồi nãy, thì được báo cáo là có nhiều người ăn mặc lộn xộn, vũ khí cầm tay, đang nép hai bên lề đường từ hướng Hòa Cường tiến vào.
Tôi dùng làn sóng của hệ Ðặc Cảnh ra lệnh cho Sở Tác Vụ Vùng và Sở Ðặc Cảnh sở tại đối phó, đồng thời gọi máy điện thoại cho đại tá Nguyễn Xuân Lộc, Tư Lệnh Cảnh Lực Vùng I, lúc ấy đang cùng có mặt với các Chánh Sở Vùng và một số Chỉ Huy Cảnh Lực Tỉnh tập trung tại đây.
Lát sau, anh Long đến ngồi tại phòng truyền tin của Ngành Ðặc Cảnh Vùng nơi đây có máy âm thoại của cả 2 hệ nổi chìm địa phương lẫn hệ toàn quốc, và máy điện thoại bưu điện, điện thoại quân sự cách dăm mười phút lại gọi hỏi tôi tình hình thế nào.
Vì máy quá bận, tôi khuyên anh vào phòng giấy của Ðại Tá Lộc để cùng theo dõi diễn biến tình hình chung.
Khoảng sau 11 giờ đêm, từ đài Ðặc Cảnh Vùng I trung tá Long gọi tôi. Lần nầy tôi nghe giọng anh run lên, lời lẽ trịnh trọng khác thường: “Tôi xin mời ông phụ tá đến ngay để tổ chức phòng tuyến và chỉ huy đội ngũ tử thủ cùng với anh em chúng tôi!” (Tử thủ là lời cam kết của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đọc trên Ðài Phát Thanh Ðà Nẵng suốt chiều hôm nay).
Tôi hỏi về Ðại Tá Lộc thì anh đáp gọn với giọng bực tức và chán chường: “Các ngài đào ngũ hết rồi!”
Anh Long kể lại với tôi là anh được lệnh, cùng với mọi người có mặt tại trụ sở Vùng - chánh sở các sở, chỉ huy của một số tỉnh, có cả mấy viên đại tá quân đội - theo Ðại Tá Lộc xuống bến Giang Cảnh, lên tàu Giang Cảnh, rời bến hướng ra biển Ðông.
Anh hỏi đi đâu thì Ðại Tá Lộc trả lời: “Chúng ta di tản vào Nam!” Anh thấy máu uất xông lên đỉnh đầu, la lên: “Giặc chưa tấn công, thuộc viên vẫn còn ở lại, mà cấp chỉ huy đã lén lút bỏ đi như thế này là hèn!” Lộc cố giải thích: “Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn đã rút đi rồi. Trong tình huống này chúng ta đành phải phụ lòng anh em mà thôi!” Long bèn rút súng, nhìn thẳng vào mặt từng người với vẻ khinh thường, và bảo tàu ghé vào bờ cho anh trở lui.
Và anh đã về trụ sở, để cùng chiến đấu, sống chết có nhau với anh em.
Tôi tin tưởng và kính phục anh Long vô cùng; nhưng tôi thấy rõ là nếu đến sở thì sẽ dính kẹt ở đó, khó lòng điều động hoạt động bên ngoài, nên nói là tôi bận họp. Anh xin mượn tôi một máy vô tuyến cầm tay, và đòi đến họp với tôi.
Tôi kéo Thiếu Tá Ngô Phi Ðạm, chánh Sở Tác Vụ, ra xe. Ðến bến Bạch Ðằng quả thấy xe Jeep xanh trắng và ô liu bỏ đậu nghênh ngang; gọi máy vô tuyến trên hệ Sắc Phục đến đại tá Lộc ở sở, ở nhà, không ai trả lời; tôi bèn chỉ thị Trung Tâm Hành Quân Ðặc Cảnh báo cáo sự việc lên trung ương.
Anh Long đã đến nhà tôi, hỏi tôi ở đâu, tôi đáp là đến Ðặc Khu, nhưng tôi đến Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn; nơi đây vắng hoe. Anh hỏi, tôi đáp là vào phi trường, nhưng tôi đến Sở An Ninh Quân Ðội; nơi đây cũng chẳng còn ai. Anh không gặp tôi, lại hỏi; và tôi lại dối, tránh anh. Cứ thế mà tôi đến khắp các nơi vốn là chỗ dựa cho niềm tin của dân nhân.
Ðến sau nửa đêm thì cả thành phố đổ dồn qua cầu Trịnh Minh Thế để qua bến cảng, bãi biển Quận III, để mong chạy vào Sài Gòn. Tôi cùng Tác Vụ, Thám Sát Ðặc Biệt, quan sát xong tình hình bên đó, len lách trở về thì thoáng dưới ánh đèn pha thấy rõ hình dáng của anh, mặc cảnh chiến phục, gác khẩu M 16 ngang đùi, mặt mày đỏ gay, tức uất nhưng đầy cương nghị, lái xe vụt qua.
Ðó là hình ảnh cuối cùng của Trung Tá Nguyễn Văn Long, mãi mãi hằn sâu trong ký ức tôi.
***
Gần sáng, ngày 29 tháng 3, 1975, Việt Cộng pháo kích hải cảng, phi trường. Mờ sáng, đặc công từ hướng Núi Non Nước bắt đầu tấn công vào. Ðến trưa, tôi gọi máy về cho đại úy Nguyễn Văn Tuyên, Chánh Sở Nghiên+Kế, lúc đó còn ngồi tại chỗ, ra lệnh giải tán Trung Tâm Hành Quân của Ðặc Cảnh Vùng I, là bộ phận cuối cùng của chính quyền VNCH còn hoạt động đến phút cuối cùng, và cho phép thuộc viên tự tìm phương tiện thoát thân. Xế chiều, tôi mới kiếm được chiếc thúng, rời bờ, liều lĩnh trước các làn đạn pháo kích của địch và trực xạ của chính bạn mình.
Và tôi không còn gặp lại anh Long.
***
Cái chết của Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long làm tôi suy nghĩ rất nhiều.
Anh đã phục vụ dưới nhiều chế độ khác nhau, đảm trách công tác ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng vẫn giữ mình trung chính khiết liêm. Anh tuy lớn tuổi nhưng vẫn trẻ trung trong lối sống và trong công việc, không bị lứa trẻ sau này vượt qua.
Trong lúc nước nhà đang bị cộng sản xâm lăng, anh ý thức được chúng là kẻ thù số một của toàn dân, sự nghiệp chống Cộng phải là ưu tiên số một của mọi người yêu quý tự do, nên anh phải góp phần vào. Thành quả chống Cộng của CSQG nói chung, là đã có lúc hạ được nhiều tên cộng tặc hơn cả con số chúng bị thiệt hại trên chiến trường, do đó, anh tự nhận lãnh vào bản thân mình một phần trách nhiệm đối với đối phương về những tổn thất mà chúng hứng chịu nặng nề; nhưng trên tất cả là sự sụp đổ thảm khốc của Việt Nam Cộng Hòa, mà đối với tổ quốc, dân tộc, lịch sử, và thế giới, thì cái trách nhiệm vô cùng lớn lao ấy nhất định là của mọi người, trong đó có anh; nên anh tự xử - cũng như các anh hùng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn, vân vân - để tạ tội với tiền nhân và quốc dân, và để nói lên tinh thần bất khuất của người chiến sĩ tự do, không chịu hạ mình đầu hàng kẻ thù.
Cái chết của anh Long làm tôi hãnh diện vô cùng. Tuy người chết không mong được đời nhắc đến, nhưng bổn phận của người sống là phải phát huy những tấm gương trí dũng ngời sáng ấy, để nhờ đó mà mình tin tưởng và phấn khởi tiếp tục lo toan sự nghiệp chung.
Bây giờ, đối với toàn dân, Nguyễn Văn Long không còn là một trung tá, là một chánh Sở Tư Pháp, là một viên chức an ninh, là những gì gì khác nữa... mà anh đã là và vẫn còn là đại diện cho bất cứ chiến hữu ưu tú nào, không phân biệt cấp/bậc, chức vụ, ngành/nghề, hình sự hay phản gián, phái mạnh hay phái đẹp; mà anh đã vinh quang đi vào lịch sử với tư cách một anh hùng của dân tộc Việt Nam nói chung và Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia nói riêng.
Cựu CSQG Lê Xuân Nhuận
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire