Tết của Việt Nam (hay còn gọi đầy đủ là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết
Cổ truyền, năm mới hay chỉ đơn giản Tết) là dịp lễ quan trọng nhất của
Việt Nam được hình thành từ nền văn minh lúa nước và đời sống nông
nghiệp của dân tộc Việt. Chữ "Tết" do chữ "Tiết" (節) mà thành.[1] Tết cổ
truyền cũng được gọi là "Tết Nguyên đán". Hai chữ "Nguyên đán" (元旦) có
gốc chữ Hán; "nguyên" có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và "đán" là
buổi sáng sớm, cho nên đọc đúng phiên âm phải là "Tiết Nguyên Đán". Tết
cổ truyền của Việt Nam được người Trung Quốc hiện nay gọi là Xuân tiết
(春節) hoặc Nông lịch tân niên (農曆新年), còn tết của Trung Quốc ngày nay lại
là Tết dương lịch tức ngày 1 tháng 1 hằng năm. Nhưng với cộng đồng
người Hoa ở Đài Loan, Hồng Kông hay nhiều nước khác, Tết Nguyên Đán vẫn
là tết cổ truyền của họ. Điều này cũng phản ánh Tết không phải của người
Hoa Bắc và vùng Hoa Nam (Đài Loan, Hồng Kông, Quảng Châu...) vốn là đất
Việt xưa.
Vì Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của mặt trăng nên Tết Nguyên Đán
của Việt Nam muộn hơn Tết Dương lịch (còn gọi nôm na là Tết Tây). Do
quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết
Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19
tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng
2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong
khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến
hết ngày 7 tháng Giêng).
Do cách tính của âm lịch Việt Nam có khác với Trung Quốc cho nên Tết Nguyên đán của người Việt Nam đôi khi không hoàn toàn trùng với Xuân tiết của người Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa khác.
Do cách tính của âm lịch Việt Nam có khác với Trung Quốc cho nên Tết Nguyên đán của người Việt Nam đôi khi không hoàn toàn trùng với Xuân tiết của người Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa khác.
*
* *
Tết Nguyên Đán ở Việt Nam
Tết
Nguyên Đán hay còn gọi là Tết Cả, là lễ hội cổ truyền lớn nhất, lâu đời
nhất, có phạm vi phổ biến rộng nhất, từ Nam Quan đến Cà Mau và cả vùng
hải đảo, tưng bừng và nhộn nhịp nhất của dân tộc. Từ những thế kỷ xa xưa
thời Lý, Trần, Lê, ông cha ta đã cử hành lễ Tết hàng năm một cách trang
trọng.
Tết Nguyên Đán là khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống lễ hội Việt Nam, mà phần “lễ” cũng như phần “hội” đều rất phong phú cả nội dung cũng như hình thức, mang một giá trị nhân văn sâu sắc và đậm đà.
Việc ông cha ta xác định Tết Cả đúng vào thời điểm kết thúc một năm cũ, mở đầu một năm mới theo âm lịch, là một chu kỳ vận hành vũ trụ, đã phản ánh tinh thần hòa điệu giữa con người với thiên nhiên (Đất-Trời-Sinh vật), chữ NGUYÊN có nghĩa là bắt đầu, chữ ĐÁN có nghĩa là buổi ban mai, là khởi điểm của năm mới. Đồng thời, Tết cũng là dịp để gia đình, họ hàng, làng xóm, người thân xa gần sum họp, đoàn tụ, thăm hỏi, cầu chúc nhau và tưởng nhớ tri ơn ông bà, tổ tiên.
Tết Nguyên Đán là khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống lễ hội Việt Nam, mà phần “lễ” cũng như phần “hội” đều rất phong phú cả nội dung cũng như hình thức, mang một giá trị nhân văn sâu sắc và đậm đà.
Việc ông cha ta xác định Tết Cả đúng vào thời điểm kết thúc một năm cũ, mở đầu một năm mới theo âm lịch, là một chu kỳ vận hành vũ trụ, đã phản ánh tinh thần hòa điệu giữa con người với thiên nhiên (Đất-Trời-Sinh vật), chữ NGUYÊN có nghĩa là bắt đầu, chữ ĐÁN có nghĩa là buổi ban mai, là khởi điểm của năm mới. Đồng thời, Tết cũng là dịp để gia đình, họ hàng, làng xóm, người thân xa gần sum họp, đoàn tụ, thăm hỏi, cầu chúc nhau và tưởng nhớ tri ơn ông bà, tổ tiên.
Xét
ở góc độ mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Tết – do tiết (thời
tiết) thuận theo sự vận hành của vũ trụ, biểu hiện ở sự chu chuyển lần
lượt các mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông – có một ý nghĩa đặc biệt đối với một
xã hội mà nền kinh tế vẫn còn dựa vào nông nghiệp làm chính. Theo tín
ngưỡng dân gian bắt nguồn từ quan niệm “Ơn trời mưa nắng phải thì”,
người nông dân còn cho đây là dịp để tưởng nhớ đến các vị thần linh có
liên quan đến sự được, mất của mùa màng như thần Đất, thần Mưa, thần
Sấm, thần Nước, thần Mặt trời… người nông dân cũng không quên ơn những
loài vật, cây cối đã giúp đỡ, nuôi sống họ, từ hạt lúa đến trâu bò, gia
súc, gia cầm trong những ngày này.
Về ý nghĩa nhân
sinh của Tết Nguyên Đán, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trước hết đó là
Tết của gia đình, Tết của mọi nhà. Người Việt Nam có tục hằng năm mỗi
khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, kể cả những người
xa xứ cách hàng ngàn kilômét, vẫn mong được trở về sum họp dưới mái ấm
gia đình trong 3 ngày Tết, được khấn vái trước bàn thờ tổ tiên, nhìn lại
ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng nước, mảnh sân nhà, nơi mà gót chân một
thời bé dại đã tung tăng và được sống lại với bao kỷ niệm đầy ắp yêu
thương ở nơi mình cất tiếng chào đời. “Về quê ăn Tết”, đó không phải là
một khái niệm thông thường đi hay về, mà là một cuộc hành hương về nơi
cội nguồn, mảnh đất chôn nhau cắt rốn.
Theo quan niệm của người Việt Nam, ngày Tết đầu xuân là ngày đoàn tụ, đoàn viên, mối quan hệ họ hàng làng xóm được mở rộng ra, ràng buộc lẫn nhau thành đạo lý chung cho cả xã hội: tình gia đình, tình thấy trò, con bệnh với thầy thuốc, ông mai bà mối đã từng tác thành đôi lứa, bè bạn cố tri, con nợ và chủ nợ…
Theo quan niệm của người Việt Nam, ngày Tết đầu xuân là ngày đoàn tụ, đoàn viên, mối quan hệ họ hàng làng xóm được mở rộng ra, ràng buộc lẫn nhau thành đạo lý chung cho cả xã hội: tình gia đình, tình thấy trò, con bệnh với thầy thuốc, ông mai bà mối đã từng tác thành đôi lứa, bè bạn cố tri, con nợ và chủ nợ…
Tết
cũng là dịp “tính sổ” mọi hoạt động của một năm qua, liên hoan vui mừng
chào đón một năm với hy vọng tốt lành cho cá nhân và cho cả cộng đồng.
Nhưng rõ nét nhất là không khí chuẩn bị Tết của từng gia đình. Bước vào
bất cứ nhà nào trong thời điểm này, cũng có thể nhận thấy ngay không khí
chuẩn bị Tết nhộn nhịp và khẩn trương, từ việc mua sắm, may mặc đến
việc trang trí nhà cửa, chuẩn bị bánh trái, cỗ bàn, đón tiếp người thân ở
xa về… Đối với các gia đình lớn, họ hàng đông, có quan hệ xã hội rộng,
đông con cháu, dâu rể, thì công việc chuẩn bị càng phức tạp hơn.
Theo
tập tục, đến ngày 23 tháng chạp là ngày đưa tiễn ông Táo về trời để tâu
việc trần gian, thì không khí Tết bắt đầu rõ nét. Ngày xưa dưới thời
phong kiến, từ triều đình đến quan chức hàng tỉnh, hàng huyện đều nghĩ
việc sau lễ “Phất thức” (tức lễ rửa ấn, rửa triện). Ở cấp triều đình,
trong lễ nầy có sự hiện diện của nhà vua, các quan đều mặc phẩm phục uy
nghiêm. Xem thế đủ biết rằng ngày tết được coi trọng như thế nào.
Sau đó, các quan cất vào tủ, niêm phong cẩn thận. Không một văn bản nào được kiềm ấn, mọi pháp đình đều đóng cửa. Con nợ không thể bị sai áp, các tội tiểu hình không bị trừng phạt, tội nặng thì giam chờ đến ngày mồng 7 tháng giêng (lễ khai hạ) mới tiến hành giải quyết. Như vậy, Tết Cả kéo dài từ ngày 23 tháng chạp (một tuần trước giao thừa) đến mồng 7 tháng giêng (một tuần sau giao thừa).
Sau đó, các quan cất vào tủ, niêm phong cẩn thận. Không một văn bản nào được kiềm ấn, mọi pháp đình đều đóng cửa. Con nợ không thể bị sai áp, các tội tiểu hình không bị trừng phạt, tội nặng thì giam chờ đến ngày mồng 7 tháng giêng (lễ khai hạ) mới tiến hành giải quyết. Như vậy, Tết Cả kéo dài từ ngày 23 tháng chạp (một tuần trước giao thừa) đến mồng 7 tháng giêng (một tuần sau giao thừa).
Không biết
Tết cổ truyền của dân tộc xuất hiện từ bao giờ, nhưng đã trở nên thiêng
liêng, gắn bó trong tâm hồn, tình cảm của mỗi người dân Việt Nam. Những
tục lệ trò vui trong dịp Tết, chiếc bánh chưng xanh, mâm ngũ quả trên
bàn thờ gia tiên, cành đào, chậu quất khoe sắc trong mỗi gia đình đã trở
thành một phần hình ảnh của quê hương để mỗi người Việt Nam dù sống ở
nơi đâu mỗi độ xuân về lại bồi hồi nhớ về đất nước với bao tình cảm nhớ
nhung tha thiết. Làm sao quên được thuở ấu thơ cùng đám trẻ con ngồi vây
quanh nồi bánh chưng sôi sùng sục chờ giờ vớt bánh! Làm sao có thể quên
được những phiên chợ Tết rợp trời hoa!
Ngày
Tết chính thức bắt đầu từ giao thừa. Đây là thời điểm thiêng liêng nhất
trong năm, thời điểm giao tiếp giữa năm cũ và năm mới, thời điểm con
người giao hòa với thiên nhiên, Tổ tiên trở về sum họp với con cháu.
Cúng giao thừa xong cả nhà quây quần quanh mâm cỗ đã chuẩn bị sẵn, uống
chén rượu đầu tiên của năm mới, con cái chúc thọ ông bà cha mẹ, người
lớn cho trẻ em tiền quà mừng tuổi đựng trong những bao giấy đỏ.
Sau lễ giao thừa còn có tục đi đến đền chùa làm lễ sau đó hái về một nhánh cây đem về gọi là hái Lộc, hoặc đốt một nén hương rồi đem về cắm trên bàn thờ gia tiên gọi là Hương Lộc. Họ tin rằng xin được Lộc của trời đất thần Phật ban cho thì sẽ làm ăn phát đạt quanh năm. Sau giao thừa người nào từ ngoài đường bước vào nhà đầu tiên là người “xông nhà”, là người “tốt vía” thì cả nhà sẽ ăn nên làm ra, gặp nhiều may mắn, vì vậy người xông nhà thường được chọn trong số những người bạn thân.
Sau lễ giao thừa còn có tục đi đến đền chùa làm lễ sau đó hái về một nhánh cây đem về gọi là hái Lộc, hoặc đốt một nén hương rồi đem về cắm trên bàn thờ gia tiên gọi là Hương Lộc. Họ tin rằng xin được Lộc của trời đất thần Phật ban cho thì sẽ làm ăn phát đạt quanh năm. Sau giao thừa người nào từ ngoài đường bước vào nhà đầu tiên là người “xông nhà”, là người “tốt vía” thì cả nhà sẽ ăn nên làm ra, gặp nhiều may mắn, vì vậy người xông nhà thường được chọn trong số những người bạn thân.
Tết
là dịp để con người trở về cội nguồn. Ai dù có đi đâu xa vào ngày này,
cũng cố trở về quê hương để được sum họp với người thân dưới mái ấm gia
đình, thăm phần mộ tổ tiên, gặp lại họ hàng, làng xóm. Ngày Tết cũng làm
cho con người trở nên vui vẻ hơn, độ lượng hơn. Nếu ai có gì đó không
vừa lòng nhau thì dịp này cũng bỏ qua hết để mong năm mới sẽ ăn ở với
nhau tốt đẹp hơn, hoà thuận hơn. Có lẽ đó là ý nghĩa nhân bản của Tết
Việt Nam.
*
* *
* *
Mấy Tục Lệ Trong Ðêm Giao Thừa
Toan Ánh
Toan Ánh
Trong
Ðêm Giao Thừa, sau khi làm lễ giao thừa xong, có những tục lễ riêng mà
cho tới ngày nay từ thôn quê đến thành thị vẫn còn nhiều người theo giữ.
Lễ chùa, đình, đền: Lễ giao
thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để
cầy phúc cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và cho
gia đình. Và nhân dịp người ta thường xin quẻ đầu năm.
Kén hướng xuất hành:
Khi đi lễ, người ta kén giờ và kén hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng
giờ để gặp sự may mắn quanh năm. Ngày nay, người ta đi lễ nhưng ít người
kén giờ và kén hướng.
Hái lộc:
Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong, lúc trở về người ta có tục hái một
cành cây mang về ngụ ý là lấy lộc của Trời đất Phật Thần ban cho. Trước
cửa đình cửa đền, thường có những cây đa, cây đề, cây si cổ thụ, cành lá
xùm xòa, khách đi lễ mỗi người bẻ một nhánh, gọi là cành lộc. Cành lộc
này mang về người ta cắm trước bàn thờ cho đến Với tin tưởng lộc hái về
trong Ðêm giao thừa sẽ đem lại may mắn quanh năm, người Việt Nam trong
buổi xuất hành đầu tiên bao giờ cũng hái lộc. Cành lộc tượng trưng cho
tốt lành may mắn. Về tục xuất hành cũng như tục hái lộc có nhiều người
không đi trong Ðêm giao thừa, mà họ kén ngày tốt giờ tố trong mấy ngày
đầu năm và Ði đúng theo hướng chỉ dẫn trong các cuốn lịch đầu năm để có
thể có được một năm hoàn toàn may mắn.
Hương lộc:
Có nhiều người trong lúc xuất hành đi lễ, thay vì hái lộc cành cây, lại
xin lộc tại các đình đền chùa miếu bằng các đốt một nắm hương hoặc một
cây hương lớn, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó cắm tại
bình hương bàn thờ Tổ tiên hoặc bàn thờ Thổ Công ở nhà. Ngọn lửa tượng
trưng cho sự phát đạt. Lấy lửa tự các nơi thờ tự mang về, tức là xin
Phật Thánh phù hộ cho được phát đạt tốt lộc quanh năm. Trong lúc mang
nấm hương từ nơi thờ tự trở về, nhiều khi gặp gió, nấm hương bốc cháy,
người ta tin đó là một điềm tốt báo trước sự may mắn quanh năm. Thường
những người làm ăn buôn bán hay xin hương lộc tại các nơi thờ tự.
Xông nhà:
Thường cúng giao thừa ở nhà xong, người gia chủ mới đi lễ đền chùa. Gia
đình có nhiều người, thường người ta kén một người dễ vía ra đi từ lúc
chưa đúng giờ trừ tịch, rồi khi lễ trừ tịch tới thì dự lễ tại đình chùa
hoặc ở thôn xóm, sau đó xin hương lộc hoặc hái cành lộc về. Lúc trở về
đã sang năm mới, người này đã tự xông nhà cho gia đình mình, mang sự tốt
đẹp quanh năm về cho gia đình. Ði xông nhà như vậy tránh được sự phải
nhờ một người tốt, vía khác đến xông nhà cho mình. Nếu không có người
nhà dễ vía để xông nhà lấy, người ta phải nhờ một người khác trong thân
bằng cố hữu tốt vía để sớm ngày mồng một Tết đến xông nhà, trước khi có
khách tới chúc Tết, để người này đem lại sự dễ dãi may mắn lại.
Trích “Tín Ngưỡng Việt Nam” - Toan Ánh
Cảm ơn bạn về những thông tin thú vị trên...
RépondreSupprimersửa đồ gỗ tại mỹ đình
sửa tủ gỗ tại Hà Nội
sửa đồ gỗ tại nhà
sửa đồ gỗ
Những thông tin rất hay và thú vị....
RépondreSupprimersửa đồ gỗ tại mỹ đình
sửa tủ gỗ tại Hà Nội
sửa đồ gỗ tại nhà
sửa đồ gỗ